TruyenHHH.com

Van 12

Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu" - có những tác phẩm chẳng thể hấp dẫn ta đọc đến trang cuối cùng, nhưng có những tác phẩm đọc đến trang cuối cùng vẫn còn đọng lại biết bao dư âm sâu lắng, ám ảnh khôn nguôi. Dư âm ấy khi như men say, mật ngọt khiến ta cảm nhận từng dòng chảy hân hoan, hạnh phúc trong tâm hồn, khi lại như móng vuốt sắc nhọn của một con vật nào đó chạm nhẹ trái tim ta, khiến ta thổn thức, nhói đau. Sức truyền cảm của một tác phẩm thực sự, bao giờ cũng lắng sâu như thế. "Vợ nhặt" của Kim Lân là một tác phẩm mang đến nhiều dư âm trong lòng người đọc. Đúng như Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm đã viết: "Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc". Trong đó phải kể đến tài năng miêu tả vẻ đẹp khuất láp của người vợ nhặt trong hiện thực thảm khốc của cái đói.
Truyện ngắn "Vợ nhặt"viết về nạn đói năm 1945. Bối cảnh của truyện là không gian năm đói ở một xóm ngụ cư. Bóng dáng của sự chết chóc đè nặng trong cuộc sống của người dân nơi đây. Người chết như ngả rạ, người sống thì như những bóng ma, sự sống của con người rất mong manh, họ đang kề cận cái chết. Không gian thì hoang dại với những đàn quạ gào lên từng hồi thê thiết và vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Trong hoàn cảnh thê thảm như thế nhưng nhà văn Kim Lân vẫn nhìn thấy vẻ đẹp của con người lấp lánh trong từng sự việc của đời sống. Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm vừa là hiện thân cho số phận khốn khổ của người dân trong nạn đói, vừa ánh lên nhiều vẻ đẹp đáng quý của người phụ nữ Việt Nam.

Trước hết, người "vợ nhặt" là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là "cô ả", "thị", "người đàn bà", "nàng dâu mới", "nhà tôi", nhưng lại là một nhân vật có vai trò đặc biệt quan trọng trong tác phẩm. Việc không đặt tên cho nhân vật là một dụng ý của tác giả làm tăng thêm tính khái quát cho hình tượng. Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc "Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh", thị "ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng...cười tít mắt". Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ. Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: "người phụ nữ gầy vêu vao", "áo quần tả tơi như tổ đỉa", "khuôn mặt lưỡi cày xám xịt" nổi bật với "hai con mắt trũng hoáy". Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng "sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì". Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách. Vì đói mà thị trở nên "chao chát", "chỏng lỏn", "chua ngoa, đanh đá". Thị "cong cớn", "sưng sỉa" khi giao tiếp, nói chuyện. Miếng ăn ngày đói đã khiến con người thành ra vẻ rẻ rúng bèo bọt và đáng thương đến vậy.

Nhưng phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người "vợ nhặt" lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Nghe những lời nói đùa của Tràng, thị đã tưởng thật hay cố tình tưởng thật mà theo không Tràng về làm vợ. Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ vì mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra tất cả hành động cử chỉ và lời nói của thị đều xuất phát từ bản năng sinh tồn, khao khát sống vốn có của mỗi người. Khi cái chết và cái đói đang cần kề người ta không còn để ý gì đến danh dự của mình nữa. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: "Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai".

Phía sau vẻ nhếch nhác, chao chát, người "vợ nhặt" lại là một người phụ nữ rất ý tứ, tế nhị, biết điều. Kim Lân đã cố ý đưa vào lời nói của thị một từ mang hàm ý độc đáo "Đã thật thì đẩy chứ sợ gì", "Ừ ăn thì ăn sợ gì". Qua những lời nói đó người đọc cảm nhận được sự ngượng ngùng xấu hổ của cô gái, chị như đang cố gắng che giấu đi sự ngượng ngùng ấy trong cách nói tưởng như bạo dạn và chỏng lỏn. Hai tiếng "sợ gì" góp phần cho người đọc thấy rõ hơn tình thế khốn khổ của cô gái đồng thời cho ta cảm nhận được chút lòng tự trọng đáng thương của cô. Trên đường về nhà chồng, tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn "săm soi", chọc ghẹo của người dân ngụ cư thị ngượng nghịu "chân nọ bước díu cả vào chân kia", "đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt". Về đến nhà chồng, nhìn thấy "ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại", thị "nén một tiếng thở dài". Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt "ngồi mớm" vào mép giường "Ngồi mớm" là thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ. Chi tiết cho ta thấy sự ngượng ngùng pha lẫn tâm trạng lo lắng, thấp thỏm của cô gái. Khi bà cụ Tứ về thị cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết "đứng vân vê tà áo đã rách bợt".

Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. Sáng hôm sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: "Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh". Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị. Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có "niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn". Khi đón bát cháo cám của bà cụ Tứ, hai con mắt thì tối lại nhưng chị vẫn "điểm nhiên và vào miệng". Hành động của thị không làm cho mọi người phải khó xử, nó là kết quả của một nhận thức chín chắn, sâu sắc và một nhân cách đáng trân trọng. Thị xác định phải đồng cam cộng khổ với mọi người trong gia đình cùng nương tựa vào nhau để vượt qua cơn đói khổ. Không chỉ vậy, thị còn đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường cách mạng phía trước mà anh sẽ lựa chọn "trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...".

Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo. Bút pháp tả thực khắc họa chân dung nhân vật một cách chân thực sinh động. Xây dựng nhân vật thông qua những chi tiết ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động đặc biệt là tâm lý nội tâm nhân vật. Ngôn ngữ trần thật sinh động, hấp dẫn gần với lời ăn tiếng nói của người dân lao động. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới "lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối" của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

​Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện .Người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenHHH.com