TruyenHHH.com

Van 12

Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: "Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng,  mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng". "Người lái đò sông Đà" có thể coi là một minh chứng sinh động cho nhận xét trên. Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân khi viết về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, lại đam mê kiếm tìm cái đẹp, ông viết về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cỏ cây trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.

Nhắc đến “Người lái đò sông Đà” ta không thể không nhắc đến nhân tố ngôn ngữ làm nên nét đặc sắc, cuốn hút vô cùng với người đọc bằng tài năng sử dụng ngôn từ tài hoa của nghệ sĩ ngôn ngữ bậc thầy Nguyễn Tuân. Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là “tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện”. - M go ro ki. Là bậc thầy về ngôn từ và là một trong những cây bút có sức sáng tạo độc đáo nhất của nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự tài hoa, uyên bác, cá tính riêng trong phong cách sáng tác trong những tác phẩm của mình. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở thể loại tùy bút. “ Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông. Qua tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã có phát hiện mới mẻ về vẻ đẹp của con sông Tây Bắc, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp lao động tài ba của người lao động mà cụ thể ở đây là hình tượng người lái đò mưu sinh trên sông.

Tùy bút “ Người lái đò sông đà” được sáng tác sau chuyến đi thực tế gian nan nhưng cũng đầy hào hứng nơi Tây Bắc xa côi của Nguyễn Tuân . Bài tùy bút được in trong tập “ Sông Đà” xuất bản năm 1960 - giai đoạn miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa . Tây Bắc là nơi có biết bao nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình để thực hiện quá trình lột xác văn học và phải nói “ Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm xuất sắc nhất giai đoạn này.

Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét “... Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm...”. Quả đúng là như vậy, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, thường miêu tả cái đẹp của thiên nhiên, con người bằng sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế. Ấy vậy mà hình ảnh con sông Đà hiện lên trong văn của ông thật hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng. Trước hết sự hung bạo của con sông Tây Bắc được nhà văn miêu tả hết sức tinh tế với ngôn từ độc đáo, sáng tạo.

Sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo, dữ dằn, lắm thác nhiều gềnh, không chảy theo khuôn khổ nhất định như những con sông khác: “Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”. Trước hết tính cách hung bạo ấy được thể hiện ở chỗ vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông. Cái hẹp của lòng sông được tác giả miêu tả đầy chân thực “đúng ngọ mới có mặt trời”, chặt hẹp tới mức “chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách”, khiến cho người đi trên sông ngồi trên đò thấy mình “đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên tầng nhà thứ mấy”... Bằng sự so sánh vừa cụ thể vừa chính xác, nhà văn đã làm cho người đọc cảm nhận đầy thực tế sự nguy hiểm của con sông. Những câu văn miêu tả, liên tưởng đầy độc đáo ấy đã làm cho con sông Đà trở nên đẹp ở vẻ hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm. Vũ Quần Phương khi viết về sông Đà cũng từng nhắc tới những vách đá nơi đây:
Tôi đi với sông Đà
Bao lần rồi vẫn lạ
Tôi thuộc ngầm, thuộc đá
Tôi thuộc lũ,thuộc dòng

Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ khi miêu tả tính cách hung bạo của con sông qua “Nước-đá-sóng-gió”: “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Động từ “ xô” được ngăn cách bởi nhiều dấu phẩy liên tục tạo nên sự trùng điệp, làm cho dòng sông đã dữ dằn càng thêm dữ dằn hơn. Điệp từ “ sóng, giờ” gợi lên những khó khăn cho con người khi di chuyển trên những quãng sông dữ tợn. Dòng sông như một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng con người, những ai đi qua đây bởi “quãng này nếu khinh suất không thận trọng tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

Tiếp tục miêu tả sự hung hang của con sông, nhà văn đưa người đọc tới quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, đến với những hút nước và thác đá. Những cái hút “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, xoáy tít tận đáy, “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, có lúc lại nghe rung rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Đúng là sông Đà không khác gì một con thủy quái đi đến đâu cũng gieo rắc nguy hiểm. Cho nên “không một chiếc thuyền nào dám men gần”, bởi nếu bị hút là “trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau là tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Thác thì cứ thi nhau “oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gần mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Dưới chân thác thì “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Cách so sánh, liên tưởng của Nguyễn Tuân thật độc đáo và rất hiếm thấy ở trong văn học, nó tạo cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy, được tận mắt chứng kiến cái hung dữ của con sông.

Nếu chỉ dừng lại ở đó thì sông Đà sẽ không có được những câu ví “đắt” như “mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người được. Bởi trùng vi thạch trận trên sông mới là nơi hấp dẫn nhất, lôi cuốn nhất của sông Đà. Nơi mà đá mai phục hết trong lòng sông “mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược”, “nhăn nhúm” “méo mó”. Mỗi hòn đều có một nhiệm vụ riêng, chúng “đứng, nằm, ngồi tùy thích” miễn sao hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.

Sông Đà rất kiên định với mục tiêu của mình, nó thận trọng đặt ba trùng vây cho thạch trận trên sông với cách bố trí lực lượng vô cùng nham hiểm, làm sao để bắt sống mỗi con thuyền qua đây. Ở trùng vây thứ nhất: nó xếp đá chia thành ba tuyến, gồm năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh lập lờ ở phía tả ngạn (bên trái) dòng sông. Tuyến một, “đã chia làm ba hàng” như đòi ăn chết con thuyền, một khi thuyền đã vào thạch trận là không có đường lui. Tuyến hai, có thêm hàng tiền vệ canh cửa để dụ cái thuyền vào sâu bên trong, rồi “nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi” (đánh ngược trở lại). Tuyến ba, là cả một “pháo đài đá” với nhiệm vụ “phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Trùng vây thứ hai: dòng sông tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh lúc này nằm lệch ở phía bờ hữu ngạn. “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc lao mạnh trên sông đá” như muốn nhấn chìm con thuyền, bọn tưởng đá đứng khiêu khích ngay giữa cửa vào, dựng đứng thành cửa ải “nhằm níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Sang trùng vây thứ ba, tưởng dễ dàng hơn khi ít cửa hơn, nhưng sự nguy hiểm lại tăng lên gấp bội bởi “bên trái bên phải đều là cửa chết”, cửa sinh nằm ở giữa nhưng lại bị bọn đá hậu vệ bao quanh tạo thành 3 cửa “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”; đá xếp thành cổng, cánh mở cánh khép. Tính cách hung bạo của sông Đà cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, từ đó làm nổi bật hình ảnh con người lao động và tình yêu bao la mà Nguyễn Tuân dành cho sông Đà. Ở đó không chỉ là cái tài ở văn chương, cái tâm của người nghệ sĩ mà còn là sự tinh tế của một bậc thầy ngôn ngữ. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu).

Không chỉ miêu tả con sông Đà ở phương diện hùng vĩ, hung bạo của nó mà nhà văn còn quan sát con sông ở một phương diện khác đầy thơ mộng và trữ tình. Đúng như lời nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh: “... Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình.” . Ông đã miêu tả nét trữ tình của con sông khi đánh tầm mắt từ trên cao xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang, nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm tăng lên sự bí hiểm của dòng sông, ta như đi lạc giữa chốn bồng lai vừa thực, vừa mộng. Mái tóc trữ tình ấy, còn được cài thêm hoa ban, hoa gạo đẹp mơ màng trong khói nương mùa xuân. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông là “cố nhân” xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân cách hóa đó làm cho sông Đà đã trữ tình lại càng trở nên gợi cảm hơn! Đúng như trong “Thư trách người tình nhân không quen
biết” của Tản Đà viết:
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”


Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Nhà văn không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông “đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà; đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống” sau đó mới khẳng định: sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà “xanh ngọc bích” chứ không “xanh màu xanh canh hến như màu của sông Gâm, sông Lô”. “Xanh ngọc bích” là xanh trong xanh sáng - một sắc màu gợi cảm giác trong lành, đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời cùng nhau hòa quyện. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Câu văn so sánh khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước sự đa dạng của sắc nước sông Đà, nó không thay đổi dồn dập như màu nước sông Hương “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” hay đỏ nặng một màu phù sa như nước sông Hồng. Bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc những cảnh đẹp ấn tượng dọc đôi bờ sông. Không dữ dội như quãng bày thạch trận trên sông, “cảnh ven sông lặng như tờ, từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, “Bờ sông Đà,, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ mộng “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Tác giả hưởng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Đúng như nhà văn đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi thơ”. Điểm thêm vào đó là “một nương ngô nhủ lên mấy lá ngô non đầu mùa” cùng “một đàn hươu củi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch “Yên hoa tâm nguyệt hả Dương Châu” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Chất thơ trong nét tính cách trữ tình này, có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy, gợi lên trong tâm trí người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc - nơi khởi nguồn cho tình yêu quê hương đất nước.

“... Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ... Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ...”. (Phan Huy Đông).
Bằng sự quan sát tinh tường, tỉ mỉ của mình Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công vẻ đẹp của con sông Đà lúc thì hung bạo, lúc thì thơ mộng trữ tình như “một cô thiếu nữ”.

Từ việc miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo của con sông Tây Bắc xa xôi nhà văn đã xây dựng lên nhằm tôn vinh vẻ đẹp tài hoa trong lao động của con người mà nổi bật ở đây là người lái đò mưu sinh trên những quãng sông. Hình tượng người lái đò xuất hiện với vẻ ngoài trạc tuổi bảy mươi “đầu tóc bạc trắng” nhưng thân hình ông “vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Cánh tay “lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp lấy một cuống lái”, ngoại hình ông lái đò hiện lên đã in đậm dấu ấn của người lao động trên miền sông nước. Trên ngực nổi lên một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Sau hơn mười năm chèo đò ngược xuôi sông Đà hàng trăm chuyến, ông đã “có tay lái ra hoa”, phá từng trùng vi thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước” đã nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. Cũng không phải ngẫu nhiên mà người lái đò lại “nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá” mà cuộc sống của họ là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành lấy sự sống từ tay nó về tay mình.

Nhà văn Nguyễn Tuân đi sâu vào miêu tả người lái đò trong cảnh vượt thác: ông lái đò khéo léo tinh tế trong từng động tác đưa thuyền qua mỗi trùng vi thạch trận trên chiến trường sông nước, mỗi trùng vi vượt qua lại một nét tính cách khác nhau hiện lên. Trước tiên, ở người lái đò là cả một sự từng trải, phải là người thực sự say mê công việc, yêu mến thiên nhiên Tây Bắc thì mới có thể gắn bó với dòng sông suốt cả một đời người. Ông lái đò hiểu sâu sắc về thạch trận sông Đà, ông “nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Sông Đà đối với ông như “một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Chính vì vậy, ông “đã nắm chắc được binh pháp của thần Sông thần Đá, ông thuộc quy luật phục kích của lũ đá” sông Đà.

Cảnh vượt thác được coi là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có - ở đó là vẻ đẹp tài hoa, mưu trí; sự thông minh, linh hoạt của người lái đò. Chất tài hoa nghệ sĩ ấy được thể hiện trong bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này - thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là “trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh”. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức... người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tỉnh. Đó chính là tài năng của bậc thầy phù thuỷ ngôn ngữ như Nguyễn Tuân. Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc.

Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,...

Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chỉ ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.

Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.

So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến trên chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”... tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghi, phỏng, lái, tránh, rảo, đè, chặt... Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là trí dũng song toàn.

Đến trùng vi cuối cùng, sông Đà còn một cơ hội cuối cùng để chiến thắng được người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài của trong lại cửa trong cùng.

“Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được... sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Thạch trận sông Đà, nguy hiểm là vậy, dữ tợn là vậy nhưng ông lái đò bằng mưu trí của mình, vẫn vượt qua một cách đầy quả cảm. Qua đó, phải chăng nhà văn muốn chúng ta nghiền ngẫm một triết lý: giữa cái thế giới độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh man dại và lập lờ cạm bẫy, con người vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng sinh!

Hình tượng người lái đò sông Đà là đại diện cho những người lao động trong giai đoạn bắt đầu xây dựng lại đất nước. Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà chính là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cử là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm.

"Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chính choảng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa" - đó là lời nhận xét cho phong cách văn chương độc đáo của Nguyễn Tuân. Bằng những liên tưởng độc đáo kết hợp với phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,điệp từ nhuần nguyễn, nhà văn đã mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực khi đọc tác phẩm “ Người lái đò sông Đà”. Tùy bút là lời ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước nói chung và sự tài ba của con người lao động nói riêng . Tất cả đã được tạo nên bởi sự tài hoa, uyên bác, con mắt quan sát tinh tường của Nguyễn Tuân.

Quả thật không sai khi nói Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái đẹp, cái đẹp ông tìm kiếm không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật mà còn là cái đẹp của con người. Có lẽ đối với người dân Tây Bắc hình ảnh con sông Đà và người lái đò vô cùng gần gũi nhưng đối với độc giả khi đọc Tùy bút “Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân sẽ không khỏi bất ngờ và thán phục trước vẻ đẹp của họ. Nguyễn Tuân đã đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam một tác phẩm đầy sáng tạo với phong cách đậm chất riêng và cái tôi của một người nghệ sĩ, một bậc thầy về ngôn từ.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenHHH.com