Van 12
Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, mới biết nước đau thương.
("Người đi tìm hình của nước" - Chế Lan Viên)
Đất nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Chúng ta đã từng bắt gặp một đất nước hóa thân trong mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm đà sắc màu văn hóa dân gian mà quằn quại đau đớn trong thơ Hoàng Cầm; đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn "rũ bùn đứng dậy sáng lòa" hiện lên sống động trong thơ Nguyễn Đình Thi... Từ chiến trường Bình - Trị - Thiên khói lửa, trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ để khắc tạc một đất nước là những gì thân quen, mộc mạc và giản đơn nhất trong tâm khảm mỗi người.
→ Khác với các nhà thơ cùng thế hệ - thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ngợi ca đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có tính chất biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị nhưng không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong 9 câu thơ đầu (đoạn thơ đầu) hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
a. Cảm nhận chung về Đất Nước: Đất Nước là những gì gần gũi, thân thuộc và bình thường (9 câu đầu). (Đất Nước là gì? Đất Nước có từ bao giờ?) (Chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa)
(Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bởi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó ...
* Câu thơ mở đầu được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định:)
- Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tự nhiên, êm đềm như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể."Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Bởi thế, từ khi lọt lòng, ta đã ở trong đất nước, và rồi đất nước cũng là chứng nhân theo ta suốt hành trình cuộc đời. Cách nói "Đất Nước đã có rồi" đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy nghìn năm văn hiến. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không biết Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi lớn lên ta đã thấy Đất Nước, nó hiện diện quanh ta trong tất thảy mọi điều, từ yêu thương cho đến tôn thờ, từ nhỏ nhặt cho đến những thứ cao cả thiêng liêng. Qua từ "Ta" - một đại từ nhân xưng chỉ tính toàn thể, ông không tách mình ra khỏi cái chung, khỏi cái cộng đồng mà ngược lại, ông nhân danh cả cộng đồng để nói lên một chân lí bất diệt: đất nước là của tất cả mọi người. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể "Ngày xửa ngày xưa" của bà, của mẹ... Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" chỉ thời gian huyền hồ, hư ảo là nhịp thời gian cổ xưa xa thẳm để mở đầu những câu chuyện cổ. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước có từ rất xa xưa, trong sâu thẳm thời gian, trong kí ức tuổi thơ hồn nhiên trong sáng của mỗi cuộc đời. Đất Nước có từ trong những câu truyện cổ tích, ở đó có ông bụt, bà tiên, có phép màu làm nên bao điều kì diệu, để cái thiện thắng ác, ở hiền thì gặp lành. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Xúc động bởi ý nghĩa truyện cổ mang đến cho đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã không khỏi tự hào mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa Thương người rồi mới thương ta Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm.
("Truyện cổ nước mình")
Câu chuyện của Nguyễn Khoa Điềm đã đánh thức trong người đọc những hoài niệm đẹp đẽ của một thời đại. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hóa và lịch sử: "Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc".
Đất Nước lớn lao, kỳ vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều được chắt chiu từ những thứ vô cùng bình dị. Đất nước có trong màu xanh của trầu, màu vàng của cau, màu trắng của vôi đã quyện thành sắc đỏ thắm tươi, như dòng máu luân chuyển nuôi sống con người. Miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu có mặt trong lễ hội, đình đám, thắm đượm tình cảm họ hàng, bè bạn... Cho nên nhắc đến "miếng trầu" chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về truyện cổ tích "Sự tích trầu cau" được xem là xưa nhất trong những câu chuyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu chuyện này mà nên. Như vậy, thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ tập quán ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, là vật chứng cho lứa đôi và cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Sự tích trầu cau là cách lí giải về tình máu mủ của những người bình dân. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời. Hoàng Cầm trong bài thơ "Bên kia sông Đuống" cũng đã từng nhắc đến nét đặc trưng ấy:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắngTheo dòng lịch sử, nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ "Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". Chữ "lớn lên" là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Tác giả đưa ta về thời kỳ Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc Ân, khiến ta không thôi tự hào về truyền thống yêu nước của nhân dân ta được đúc kết lại từ thuở Vua Hùng dựng nước xa xưa. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã có lần viết về vị anh hùng quả cảm này:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chi căm thù ta rèn thép thành roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.
(Quang vinh Tổ quốc chúng ta)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến tận hôm nay, trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi...
Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: Thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ", bởi:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm, chàng lính trẻ lại tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bởi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.
- Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ với phong tục "búi tóc sau đầu" - tóc cuộn thành búi sau gáy- tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy gợi ta nhớ đến bài ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài bối rối lòng anhNguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Muối ba năm muối đang còn mặn Gừng chín tháng gừng hãy còn cay Đôi ta nghĩa nặng tình đầy
Có xa nhau đi nữa, cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa
- Thành ngữ "gừng cay muối mặn" được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy.
- Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến: "Cái kèo cái cột thành tên". Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
- Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó: "Hạt gạo cũng phải một nắng hai sương giã xay giã dần sàng". Câu thơ nhắc ta nhớ bài ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đẳng cay muôn phần.Thành ngữ "Một nắng hai sương" gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông dân phải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân bao đời nay.Khép lại khổ thơ, nhà thơ đã khẳng định sự ra đời của đất nước một cách đầy tự nhiên và kiêu hãnh "Đất Nước có từ ngày đó". "Ngày đó" là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa "Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca". Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ "Đất nước đã có", "Đất nước bắt đầu", "Đất nước lớn lên", "Đất nước có từ" đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Trường từ vựng: ông, bà, cha, mẹ gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương. Đó cũng là khởi nguồn của đất nước. Bởi nói như chú Năm "Con sông gia đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta" (Những đứa con trong gia đình)Ta có thể khẳng định Nguyễn Khoa Điềm rất tài tình trong việc thể hiện cái cũ bằng cái nhìn vô cùng mới mẻ, vừa quen vừa lạ khiến người đọc cảm thấy gần gũi và kinh ngạc. Thật vậy, với khả năng vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp... Nhà thơ đã sáng tạo nhuần nhuyễn thành ngữ dân gian, ca dao, tục ngữ, cổ tích, truyền thuyết... Cùng các phép so sánh, nhân hoá ẩn dụ được kết hợp hài hoà với ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình. Và ta lại rút ra cho mình thêm một phát hiện mới: Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ... toàn bộ đều gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
b. Cảm nhận Đất Nước ở chiều rộng của không gian địa lí. (Đất Nước là gì?) ("Đất là nơi...trong bọc trứng")
→ Ai sinh ra đều có một Đất Nước để yêu thương, để tự hào và xem đó là chốn thiêng liêng, tồn tại hiển nhiên từ thế này sang thế hệ khác. Nếu như các nhà lịch sử nghiên cứu, khám phá Đất Nước qua từng giai đoạn hình thành, thời gian phát triển để đưa ra 1 cách nhìn khách quan về Đất Nước thì các nhà thơ, nhà văn họ luôn tìm hiểu, khám phá Đất Nước từ mạch ngầm văn hóa, từ những truyền thống tốt đẹp. Nguyễn Khoa Điềm cũng góp vào đấy một bản trường ca mà chỉ qua đoạn trích này người đọc cũng hiểu được Đất Nước qua những nét tiêu biểu trong dòng chảy của thời gian.
Đất là nơi anh đến trường → (Tách "Đất" là chủ ngữ + "anh" là đại từ nhân xưng) Nước là nơi em tắm → (Tách "Nước" là chủ ngữ + "em" là đại từ nhân xưng) Đất Nước là nơi ta hò hẹn
đại từ nhân xưng "ta".
-
Kết hợp "Đất Nước" thì "anh" và "em" đã chuyển thành
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
- Đất Nước là giang sơn, núi sông, là nơi có anh và có em. Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm phác họa, cảm nhận qua những câu thơ có kiểu câu như định nghĩa, giải thích và giảng giải về Đất Nước như "Đất là...", "Nước là...", "Đất Nước là ......
- "Đất" là yếu tố (-), "Nước" là yếu tố (+), có khi tách đôi, có khi lại hợp thành một thể thống nhất. Dù tách riêng hay hòa hợp thì Đất Nước cũng đều có nghĩa. Khi hai đứa "hò hẹn" thì Đất Nước hòa làm một, Đất Nước là những gì yêu thương, gần gũi, nồng thắm trong cả "anh" và "em". "Đất" là "anh" phù hợp với khí chất vững vàng, kiên định. "Nước" là "em" vì dịu dàng, nữ tính. Khi nói về anh, về em thì Đất Nước tách riêng, khi anh em "hò hẹn" thì đại từ nhân xưng chuyển thành "ta". Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn.
- Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất ...", một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.
- Đất nước được cảm nhận được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước.
- Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi" mang phong cách dân ca miền Trung, thấm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.
- Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: "Thời gian đằng đẳng, không gian mênh mông" để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm cũng đã đưa ta trở về với khởi thủy cội nguồn dân tộc, dòng giống con người Việt Nam bằng truyền thuyết "Lạc Long Quân và Âu Cơ/Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" và lập ra triều đại đầu tiên đó là vua Hùng. Nên dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ ngày giỗ Tổ. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
c. Cảm nhận Đất Nước ở chiều dài của lịch sử. (Đất Nước có tự bao giờ?) ("Những ai đã khuất....tháng ngày mơ mộng")
- Trong 9 câu thơ đầu tác giả cũng đã lí giải và trả lời cho câu hỏi "Đất Nước có từ bao giờ". Câu thơ "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi" tác giả sử dụng 2 trạng ngữ phiếm chỉ thời gian là "lớn lên" (quá khứ) và "đã có rồi" (hiện tại) là 1 cách nhìn đầy tinh tế, cách cảm nhận sâu sắc về chiều dài của lịch sử hình thành Đất Nước. Đất Nước đã có rất lâu trong quá khứ và hiện tại, bây giờ đã có và tồn tại.
- Đất Nước hình thành trong chiều sâu của lí lẽ của trái tim, nhiều yêu thương, ngọt ngào, đằm thắm trong cuộc sống hằng ngày qua những câu chuyện cổ tích, qua những phong tục tập quán...qua những sự vật gần gũi trong cuộc sống đời thường.
Câu thơ "Đất Nước ta có từ ngày đó" là một cách lí giải đặc biệt về thời gian ra đời của Đất Nước. Ngày đó là ngày nào? Chắc có lẽ là ngày mà chúng ta có truyền thống, phong tục, văn hóa, mà có văn hóa nghĩa là đã có Đất Nước.
- Đất Nước được cảm nhận trong không gian đằng đẵng:
+ Trong quá khứ: Tác giả cũng nhắc nhở chúng ta nhớ về cội nguồn của dân tộc, biết gánh vác phần việc, sứ mệnh của những người đi trước để lại, phải biết duy trì nòi giống "Yêu nhau và sinh con đẻ cái" và nhất là phải đến ngày giỗ tổ vào ngày âm lịch hằng năm: "Dù ai đi ngược về xuôi/Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba".
+ Trong hiện tại: Dựng nước vốn đã khó, giữ nước lại càng khó hơn nên thế hệ trẻ ("anh và em") là một phần Đất Nước đều phải đấu tranh, xây dựng bảo vệ Đất Nước của muôn
đời.
+ Hai câu thơ là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử,...Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với "anh và em", với mọi người:
Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước
Chỉ "một phần" nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm "mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của Đất Nước" được diễn đạt một cách "mềm hóa" qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của "anh và em".
Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ "hai đứa" đến "mọi người", từ "hôm nay" đến "ngày mai" và muôn đời mai sau.
"Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm".
+ Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: "Đất Nước là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm".
Và "khi hai đứa cầm tay" thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là "một phần" của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự "hài hòa, nồng thắm" với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi "nhớ":
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thẳm vô ngần ...
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng "Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm", mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi.
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Giang Nam)
+ Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích "Trăm trứng": "Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ-Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất - Những ai bây giờ...". Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Hai chữ "cầm tay" trong câu thơ "Khi hai đứa cầm tay" có nghĩa là giao duyên, là yêu thương. "Khi hai chúng ta cầm tay mọi người" là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,...Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh "Đất Nước vẹn tròn, to lớn", mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ "hài hòa, nồng thắm" đến "vẹn tròn, to lớn" là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào "ba cây chụm lại nên hòn núi cao", và chỉ khi nào "lá lành đùm lá rách", "Người trong một nước phải thương nhau cùng" thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng "Đất Nước vẹn tròn, to lớn".
+ Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: "Khi hai đứa cầm tay"... "Khi chúng ta cầm tay mọi người", "Đất Nước hài hoà nồng thắm...". "Đất Nước vẹn tròn, to lớn". Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thống "yêu nước, yêu nhà, yêu người" và đó là sức mạnh Việt Nam.
- Trong tương lai: Việc xây dựng và phát triển Đất Nước thuộc về thế hệ con cháu: "Mai này con ta lớn lên/Con sẽ mang Đất Nước đi xa".
+ Đất nước "Nguồn thiêng ông cha", đất nước "Trong anh và em hôm nay", đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.
Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam...đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,...cũng có một giọng điệu riêng "rất Huế", dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng "mai này" là cách nói của bà con xứ Huế.
- Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông "Gánh vác phần người đi trước để lại" xây dựng đất nước ta "Vạn cổ thử giang sơn" (Trần Quang Khải), "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" (Hồ Chí Minh). Hai chữ "lớn lên" biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. "Mơ mộng" nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà "anh và em", mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực "mai này" gần.
-Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.
d. Suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với Đất Nước. ("Em ơi em...muôn đời") - Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bỏ và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời ...
"Em ơi em"-một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: "Đất Nước là máu xương của mình". Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì "Đất Nước là máu xương của mình" nên Trần Vàng Sao đã viết:
Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đầy hồn Thánh Gióng.
("Bài thơ của một người yêu nước mình" 19/12/1967) Với Nguyễn Khoa Điềm thì "gắn bó", "san sẻ", "hóa thân" là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. "Phải biết gắn bó và san sẻ...phải biết hóa thân..." thì mới có thể "Làm nên Đất Nước muôn đời". Điệp ngữ "phải biết" như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca "Mặt đường khát vọng" ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: "gắn bó", "san sẻ", "hóa thân" là tiếng nói tâm huyết "mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ" như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:
Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất
(Trần Vàng Sao)Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông
(Chế Lan Viên)Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho "Đất nước muôn đời". Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.
- "Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình..." - một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem "trí lực" để xây dựng Đất Nước, "làm nên Đất Nước muôn đời", Đất nước "to đẹp hơn đàng hoàng hơn". Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. "Gắn bó, san sẻ, hóa thân" cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của "anh và em" hôm nay, của thế hệ Việt Nam "Mai này con ta lớn lên"...
2. Suy tư và nhận thức về đất nước: Khẳng định tư tưởng: Đất Nước của nhân dân. (Phần 2)
→ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm từng tâm sự về cuộc chiến chống Mỹ đã sinh ra ông - một nhà thơ vĩ đại của dân tộc: "Không có cuộc chiến đấu này chưa chắc tôi đã làm thơ và trở thành nhà thơ". Mặt trận lửa đạn đã hun đúc lên cho ông niềm nhiệt huyết thi ca. "Mặt đường khát vọng" (1971) là minh chứng rõ nét cho mạch nguồn nhiệt hứng ấy. Tác phẩm là tiếng vọng tâm tình của một hồn thơ hòa cùng mạch cảm xúc của dân tộc đứng trước dòng thác lũ thời đại, trong đó chương V "Đất nước" đã gói ghém trọn vẹn tâm tình đó của ông.a. Nhân dân đã hóa thân để làm nên Đất Nước: "Những người vợ...núi sông ta"
- Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài "Đất Nước" đã ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định những phẩm chất cao đẹp ta, tộc ta. Câu thơ mở rộng đến 13, 14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
.....
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta."
- Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do "những người vợ nhớ chồng", hoặc "cặp vợ chồng yêu nhau" mà đã "góp cho", đã "góp nên" làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái.
Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có "nhớ chồng", cặp vợ chồng có "yêu nhau" thì mới "góp cho Đất Nước", mới "góp nên" những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.
- Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái "gót ngựa của Thánh Gióng" đã "để lại" cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. 99 núi con Voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng "góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương". Các từ ngữ: "đi qua còn...để lại", "góp mình dựng" đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước:
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương. Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà "đỏ nặng phù sa". Có sông Mã "bờm ngựa phi thác trắng". Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Rồng "nằm im" từ bao đời nay mà Nam Bộ mến yêu có "dòng sông xanh thẳm" cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Phải chăng nhà thơ trẻ qua vẻ đẹp dòng sông Chín Rồng để ca ngợi giang sơn gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa?
Quảng Nam, Quảng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,...có núi Ân sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nói về "địa linh nhân kiệt" mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút, non nghiên
"Nghèo" mà vẫn "góp cho" Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt. Nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng.
Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có "con cóc, con gà quê hương cùng góp cho". Và những tên làng, lên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm...ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do "những người dân nào đã góp tên", đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, bộ hổ...làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thìa ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã "làm nên Đất Nước muôn đời":
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thẳng cánh Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Bà Đen, Bà Điểm.
Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân dân. Các thi liệu-hình ảnh: Người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò nghèo, con cóc con gà, những người dẫn nào... dưới ngòi búi của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng, đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm,...của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã "góp cho", "góp nên", "để lại", "góp mình", "cùng góp cho", "đã góp tên",...đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ - vị ngữ ấy (góp cho, góp nên...) nhiều ý nghĩa mới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào Thấy nghìn núi trăm sông diễm lệ.
("Chim lượn trăm vòng")
Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Từ cụ thể, thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tinh đắm thắm:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....
Ruộng đồng, gò bãi là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, tên sông, tên làng, tôn bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi...bất cứ ở đâu trên đất nước Việt Nam thân yêu đều mang theo "một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha". Hình tượng đất nước cũng là điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ hoài bão của ông cha ta, tổ tiên ta bốn nghìn năm lịch sử dựng nước. "Những cuộc đời đã hóa núi sông ta" là một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Chữ "một" được điệp lại 3 lần, chữ "ta" được láy lại 2 lần, kết hợp từ cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm tự hào về cảm xúc. Vừa đĩnh đạc hào hùng, vừa thiết tha lắng đọng, vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dòng thơ tráng lệ. Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộng lớn không chỉ trên bình diện địa lí "mênh mông" mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm "đằng đẵng".
Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điểm trong bài "Đất Nước". Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xuôi, yếu tố chính luận và chất chữ tình, chất cảm xúc hoà quyện, làm cho chất thơ dào dạt, ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào.
Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo nên. Nhân Dân là chủ nhân của Đất Nước.
Thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình "dịu ngọt", nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước và Nhân Dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương. Ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất
Nước.
Ôi! Việt Nam! Yêu suốt một đời.
(Tố Hữu)
b. Nhân dân vô danh làm nên lịch sử (họ đã sống, chiến đấu, bảo vệ Đất Nước): "Em ơi em....làm ra Đất Nước".
Họ đã sống một thời khắc nghiệt
Muốn sống bình thường thôi cũng phải sống anh hùng
Nuôi sống người là cây lá trên rừng
Vầng trăng đẹp nhưng bóng đêm cần cho người vượt lộ
Đường nhiều địch không kịp nhìn hoa nở
Thẳng trận về chim bảo đã sang xuân
Cái thời khắc ngàn năm qua mới có một lần
Ngàn năm sau chưa dễ gì có lại...
("Sông núi trên vai" - Anh Ngọc) Suốt những năm dài của cuộc trường chinh đánh Mỹ cứu nước, hình ảnh cả dân tộc Việt Nam vùng lên đánh giặc đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ nhất khơi nguồn cho dòng thơ kháng chiến. Sống trong những năm tháng mưa bom, bão đạn như thế, mang nhiệt huyết rực lửa trong mình - Nguyễn Khoa Điềm đã viết lên những dòng thơ cháy bỏng từ những tháng ngày sục sôi của dân tộc đánh Mỹ trong trường ca "Mặt đường khát vọng".
- Thật vậy, sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lý-văn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục bày tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước.
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
- "Em" là nhân vật trữ tình không xác định chủ, cũng là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Lời tâm tình nặng trĩu suy tư. Với lối tâm tình từ chuyện nhà thơ đã đưa chúng ta về quá khứ, lịch sử 4000 năm Đất Nước.
- Nhìn về quá khứ rất xa để thấy được năm tháng nào cũng người người lớp lớp bất phân già trẻ, gái trai cũng luôn vừa cần cù làm lụng để kiếm miếng ăn vừa đánh giặc cứu nước, bất chấp hy sinh, gian khổ, bất chấp trước bạo lực của kẻ thù.
- Trong 4000 năm lịch sử Đất Nước, bao thế hệ đi qua đã chiến đấu hi sinh dũng cảm và tên tuổi của họ cả anh và em đều biết nhưng có hàng trăm, hàng triệu con người đã đóng góp, quên mình trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước nhưng không ai nhớ mặt đặt tên. Có thể nói đây cũng là một khái niệm mới về Đất Nước của tác giả. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi lòng yêu nước của nhân dân. Những con người góp phần làm nên đất nước và bảo vệ đất nước chính là những con người bình dị và vô danh.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con
- Họ là những người lao động cần cù, chịu đựng, chịu khó nhưng khi có giặc ngoại xâm thì họ trở thành những anh hùng yêu nước, chung sức đồng lòng để cứu nước. Ông cha ta ngày trước đã luôn đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết, họ sẵn sàng hy sinh những tình cảm riêng tư của mình như tình yêu, tình chồng vợ để đi đánh giặc cứu nước với một thái độ dứt khoát mà không hề so đo, tính toán, phân bì, hơn thiệt. Hơn nữa, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta là một chủ nghĩa yêu nước, anh hùng tập thể, bất phân già trẻ, đàn ông hay đàn bà.
- Câu thơ:
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Và "ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh", làm ta liên tưởng đến các anh hùng như chị Tịch, Nguyễn Thị Minh Khai,...Từ đó, nhà thơ đã khẳng định truyền thống của dân tộc Việt Nam: Sức mạnh đoàn kết, nhất trí một lòng và có lòng căm thù sâu sắc. Đó là truyền thống lâu đời và được phát huy từ đời này sang đời khác. Đúng là nhiều người đàn bà anh hùng cả anh và em đều nhớ. Chúng ta làm sao quên được những người đàn bà đã đi vào lịch sử của dân tộc trong quá khứ như bà Trưng, bà Triệu...
- Trước hết, nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là: Người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị. Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ "cả anh và em đều nhớ":
Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Và trong cái chiều dài của lịch sử dân tộc ấy, có biết bao lớp người con gái, con trai giống như lớp tuổi chúng ta bây giờ, họ đã sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng nhà thơ đã khẳng định vai trò của họ đối với đất nước thật vô cùng to lớn. Họ chính là những con người bình thường, giản dị, nhưng có một tình cảm sâu đậm đối với đất nước.
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
- Nhìn vào lịch sử 4000 năm Đất Nước, nhà thơ đã không nhắc lại các triều đại hay kể tên các bậc vua chúa, các vị anh hùng mà những người được kể tên lại chính là những người vô danh trong cuộc sống giản dị, cống hiến và hi sinh một cách tự nguyện. Bằng những câu thơ tuy ngắn ngủi nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định Đất Nước là của nhân dân.
- Khi đất nước lâm nguy, bị kẻ thù xâm chiếm, họ tạm gác lại những tình cảm riêng tư, lên đường đi chiến đấu, đem máu xương của mình hiến dâng cho Tổ quốc. Chính họ là những con người "làm ra Đất Nước". Đó là Đất Nước của một tập thể anh hùng, một thời đại "ra ngõ gặp anh hùng", những người anh hùng vô danh đã làm nên lịch sử như trong câu thơ của Chế Lan Viên:
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Trăm con sông đều muốn hóa Bạch Đằng.
c. Nhân dân sáng tạo ra ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần, thần thoại, cổ tích, ca dao: (Còn lại)
Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh. Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hàng ngày và trong suốt cuộc đời họ:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con củi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
- Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần, vật chất và cả tình yêu đất nước của lớp lớp con người. Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nól, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong "Bài thơ báng súng":
Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua
("Bài thơ báng súng" - Hoàng Trung Thông)
- Trong sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống của dân tộc. Cách dùng từ họ: đại từ xưng hô số nhiều chỉ nhân dân - những con người bé nhỏ, bình thường thuộc đám đông trong xã hội, chứ không phải là các cá nhân anh hùng. Hệ thống các từ: giữ, truyền, gánh, đắp, be, dạy... được sử dụng đan dày trong đoạn thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp kiến quốc. Nhân dân, bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ, rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý nghĩa đã làm nên Đất Nước.
- Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa, giọng nói, tên xã, tên làng, đập, bờ...một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những truyền thống văn hoá, tạo nên sự thống nhất trong cách thể hiện Đất Nước ở toàn bộ chương V; mặt khác còn khẳng định nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo bảo tồn, lưu giữ truyền thống giàu tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động - đó là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý của Đất Nước. Nhân dân cũng chính là người góp phần mở mang bờ cõi Đất Nước, khai sông, lấn biển qua mỗi chuyến di dân đầy gian khổ.
- Ở đoạn thơ này, các dòng thơ đều bắt đầu bằng đại từ "họ" kết hợp với các động từ "giữ" "truyền" "gánh" và một loạt các hình ảnh được liệt kê trong câu thơ. Chủ ngữ "họ" được điệp ở đầu các câu thơ đem đến cảm giác về sự đông đảo, có tác dụng làm nổi rõ vai trò chủ đạo của nhân dân đối với đất nước. Nhà thơ đã sử dụng một loạt các hình ảnh vô hình và hữu hình nhưng có ý nghĩa khái quát vô cùng to lớn. Với tư tưởng "Đất Nước là của nhân dân", tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì do nhân dân làm những gì thuộc về nhân dân như "hạt lúa", "ngọn lúa" "giọng nói" "tên xã" "tên làng",...cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của Đất Nước. Chính họ đã tạo nền móng sự sống cho Đất Nước và không những vậy, họ còn vùng lên đánh nội thù chống ngoại xâm và bảo vệ Đất Nước.
- Trong cuộc đấu tranh giữ nước cũng chính là nhân dân chứ không ai khác viết lên trang sử bi tráng. Nhân dân, những con người "có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ có nội thủ thì vùng lên đánh bại" khẳng định đầy tự hào và sức mạnh lớn lao của nhân dân chống thù trong, giặc ngoài. Chính nhân dân đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất khuất. Đó là truyền thống chứa đựng bản lĩnh của một dân tộc.
- Ở đây, nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ đất nước.
- Hai câu tiếp:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
- Nhà thơ khẳng định chắc nịch "Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân", lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn ai hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân.
- Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định "Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại". Điệp ngữ chuyển tiếp "Đất nước của nhân dân" được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh "Đất Nước của ca dao thần thoại". Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của "ca dao thần thoại" nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. "Thần thoại" thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn "ca dao" bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất.
- Và khi nói đến "Đất nước của Nhân dân", một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc:
Dạy anh biết yêu em từ thở trong nội
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
- Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là "dạy". Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao "Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc, anh ngồi anh ra". Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi". Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong; mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ cho đến lúc trưởng
thành.
- Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc, ca dao đã "dạy anh biết" - Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải "Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội". Câu thơ ấy lấy ý từ ca dao "Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng". Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà...Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất.
- Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/Đi trả thù mà không sợ dài lâu". Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm đô hộ giặc Tây thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh để đến ngày toàn thắng.
- Bốn câu thơ cuối: Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dâng sông xuôi...
Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và "dòng sông" ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Đất nước ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng "trăm màu, trăm dáng". Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc.
- Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình... đoạn thơ vừa là lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình. Và bài thơ khép lại trong những suy ngẫm và cảm nhận tinh tế của Nguyễn Khoa Điêm về vẻ đẹp thơ mộng của non sông đất nước.
3. Thành công về nghệ thuật
- Các chất liệu của văn hoá dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo gợi lên một không gian nghệ thuật gần gũi, đầy cảm xúc.
- Tính hiện đại ở thể thơ tự do, câu thơ co duỗi linh hoạt kết hợp suy tưởng, triết lí, giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết tha.
4. Ý nghĩa văn bản
Bài thơ thể hiện cách nhìn mới mẻ, độc đáo về đất nước trên nhiều góc độ khác nhau: văn hóa, lịch sử, địa lí...Từ đó, làm nổi bật tư tưởng "Đất nước của nhân dân", đồng thời khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam.
Đề tài viết về đất nước luôn là nguồn cảm hứng lớn cho mọi nền văn học, nhất là đối với một nền văn học của một dân tộc mà tình yêu đất nước luôn bị đem ra thử thách. Đạt tới thành công khi viết về đề tài này, Nguyễn Khoa Điềm đã trữ tình hóa vấn đề mang tính chất chính luận, nhằm trả lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải tìm lời đáp trong cuộc chiến đấu vì lí tưởng độc lập tự do, cuộc chiến chống thể lực bạo tàn " Đất Nước này là đất nước của Nhân dân". Những vần thơ rất đẹp về Đất Nước đã vượt qua sức mạnh của thời gian, chạm đến trái tim của hàng triệu người dân Việt Nam, từ đó truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ cùng đứng lên "xuống đường" tham gia công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm cùng dân tộc, đồng thời làm thức tỉnh tình yêu quê hương luôn tồn tại trong tâm thức và trái tim của hàng triệu người con đất Việt.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenHHH.com