TruyenHHH.com

Thuong Kinh Ky Su

Chương thứ XVI. Về thăm cố-hương

Một hôm ông anh tôi nói với những bà con họ-hàng ở trong Kinh bàn nhau cải-táng một ngôi tiên-phần [còn] lại, định ngày rồi báo tin cho tôi biết, tôi đến xin phép quan Chánh -đường để về quê, ông nghi tôi cáo-biệt rồi về luôn Hoan-châu chăng, cho nên tôi đến mấy bận mà không cho dàn mặt, tôi tiều-tụy lắm không biết làm thế nào. Quận-hầu bảo tôi cứ vào trong phủ mà chào, tôi vào trong phủ đến Hậu-mã-trú-sở ngồi đợi nửa ngày mới thấy ông ở trong Cấm ra, tôi kể đầu kể đuôi ông cũng không nghe. Tôi nói: "Tôi khứ gia-hương, li phần-mộ 20 năm nay, nghèo khó không lấy gì về thăm viếng, nay đội ân chiếu-mệnh, được trở lại kinh-thành đã quá nửa năm trời mà chửa được về qua, cái tình kẻ nhân-từ như thế sao đành, xin cụ lớn thương cho." Lúc đó tôi vừa nói vừa ngất, quan Chánh-đường nói: "Việc thuốc thang nay hỏi đến luôn, nếu có chiếu-mệnh thì làm thế nào được?" Tôi nói: "Từ làng tôi đến kinh đô có nửa ngày đường, nếu có việc gì khẩn, thì khứ-hồi chỉ trong một ngày mà thôi, có ngại gì." Ông nói: "Ông phải làm khải nói có việc cải-thổ xin phép 15 ngày về quê, lại ra kinh phụng-thị thang-dược." Tôi xin một tháng. Ông nói: "Như thế có thu-xếp việc nhà, thăm hỏi bà con cũng đủ rồi." Tôi cứ cố nài mãi, ông lại cho thêm 5 ngày nữa. Tôi biết thế không cưỡng được, bèn làm khải đệ vào rồi tạ-biệt ông mà về nhà trọ, mừng không biết là chừng nào, mới đi sắp sửa đồ hành-lý, mượn thêm mấy người lính đi tùy-hành, còn 5 người lính tiền-dũng thì để coi nhà. Sáng sớm ngày 16 còn trăng, chúng tôi đã đi ra cửa Ông-mạc翁莫門, cửa thành chửa mở, lính canh thấy có thẻ hành-quán-phù mới mở cửa cho đi, đi đến bến Thanh-trì mới tang-tảng, tôi lên đó để sang sông. Khi ngồi trong thuyền, nỗi -niềm man-mác, nên một vài câu để tự-hoài rằng:

落魄江湖三十年

如今復上珥河般

千流合派橫中土

三島擎雲立遠天

感昔興今情未己

鄕懷客思却悠然

幸承詔命來京國

得與親朋笑一番.

Ba mươi năm chẵn bước giang-hồ,

Bát-tràng bến cũ lại sang đò.

Nhị-hà đất rộng dòng man-mác,

Tam-đảo trời cao khí mịt-mù.

Nổi cổ niềm kim càng chán-ngán,

Hồn quê đất khách luống mơ-hồ.

Nay nhân chiếu mệnh về Kinh-quốc,

Vui với bà con cuộc chuyện-trò.

Thuyễn đổ bến Bát-tràng, xả-chu đăng-ngạn mà đi, suốt hai bên dọc đường làng mạc trì-thịnh, dinh chúa mái ngói đỏ san-sát, hàng quán bán nước bán rượu liền-liền nhau, tôi cứ đi bộ hơn một dặm thì cho tùng-nhân nghỉ lại, chống gậy ra du-lãm, bước đi một bước dây-dây lại dừng, sắp đến Liêu-xá là gia hương của tôi, đi qua cái cầu gạch xây, ở con sông trước làng, vào nghỉ ở trong chỗ dinh cũ của tiên-khảo tôi. Bấy giờ bác Lạng-sơn-trấn đã có cái biệt dinh ở trong làng, chỉ có bà chị dâu trưởng là vợ bác Tiền-thống-nhất-quan ở đấy để đèn hương nhà thờ, bà đã ngoài 70, tóc bác như tơ, mà tinh-thần vẫn sảng-kiện, thấy tôi bà vừa thương vừa mừng, sụt-xùi nói chuyện; trong khi lữ-thứ ấy tôi cũng lấy làm ngao-ngán vô-cùng. Sáng mai tôi ra chơi xem xung-quanh vườn để tế-nhận ra những cái cơ-chỉ này nọ, đến dưới gốc một cái cây to, biết là chỗ nhà tẩm-thất của cụ tôi ngày trước, cái vườn cau bây giờ là cái chỗ nhà khách, nhà sảnh-đường; đàng sau là chỗ nhà tư-thất, bên tả là nhà bếp, bên hữu là nhà học, những cái dấu chân móng cũ, gạch ngói vụn còn có thể tìm ra được cả, đi đến một chỗ nào thì tôi lại băn-khoăn một lúc, nghĩ sự đời biến-đổi mà càng thêm đau lòng về mấy câu thơ Thủ-ly. Dùng-dằng không nỡ dời chân, đến nửa giờ mới về nhà, chào bà con họ-hàng. Đoạn rồi sửa một cái lễ một con sinh để làm lễ tại nhà thờ, người làng cũng đưa lễ đến mừng tôi, trong bọn già trẻ hơn mấy chục người, tôi chỉ biết mặt biết tên độ vài người, bèn tặng tiền lại và mời cũng uống rượu thảo bản với tôi. Từ đó có ai đến chơi với tôi thì có người phải kể cái tên cũng cơm của ông cha trước về chi-phái nào, tôi nghĩ mãi rồi mới hiểu, xót tình ly-biệt mà bất-giác òa khóc lên rằng: "Tôi từ xa cách quê-hương tính đốt tay đã 30 năm nay, về thăm thời vật đổi sao dời cả rồi, bà con đông đủ mà chẳng còn biết họ tên ai,tôi thực là một kẻ loang-toàng quá, bèn cảm hứng lên một đoản thiên rằng:

故鄕一歸省

契闊暗然生

歷歷嬉遊地

悠悠感動情

松楸新創寺

花草舊辰營

相見兒童輩

含糊認乳名.

Cố hương về đến chốn,

Tình lại cảm thương hơn.

Nô chơi qua những chỗ,

Ngần ngại đứng đòi cơn,

Chùa mới cảnh cây đẹp,

Đình cũ cỏ hoa thơm,

Hỏi ông cha lũ trẻ,

Lẫn cả tên cúng cơm.

Hôm sau sắm vàng hương đi thăm tiên-phần và lễ các nhà thờ, làm lễ thần ở ngoài miếu làng, xong rồi tôi rủ các cậu công-tử là em đường-đệ ra chơi và nói chuyện ở cái cầu của làng. Nguyên làng tôi có một cái cầu đầm hình "hồ-lô", làng có hai thôn: một thôn ở trong đầm, một thôn ở ngoài đầm, giữa bắc một cái cầu để hai thôn đi lại, trên mặt cầu dựng thành nhà, lợp ngói, hai bên cầu bắc sàn, ngoài rìa đóng câu-lơn gỗ, để du-nhân nghỉ-ngơi, những đàn-bà ra bán chè rượu cùng quà bánh ở đấy. Lúc tôi còn bé thích chơi ở đấy lắm, không ngày nào không ra, cứ đến đầu mùa hạ, mưa to, nước sông lớn chẩy vào mạnh, tôi thường cùng với ông Lạng-sơn-trấn là anh tôi ra đấy tắm, nào bơi, nào ngụp, đến khuya mới về; tôi còn nhớ bác Lạng-sơn có bảo tôi rằng:" Chúng ta còn bé nên chơi bời cho thỏa-thích, chẳng sau lớn đi làm quan, xa cách giang-hồ, thì còn được nô đùa gì với nhau ở đây nữa". Thế mà nay anh tôi quả-nhiên đăng đệ, tôi thì xa cách chốn giang-hồ, chả phải là một câu "sấm-ngữ" của trẻ con là gì? Bấy giờ tôi kể cả các chuyện cũ cho các công-tử nghe mà bất-giác lại động lòng hoài-cổ, bèn ngâm một đoản-luật rằng:

少辰遊玩處

每望每咨嗟

幾度飛黃葉

重來望白波

橋橫依舊曲

樹短至今斜

歲月催人去

親朋幾在家.

Những chỗ chơi khi nhỏ,

Nay càng ngán nỗi lòng.

Là vàng bay mấy độ,

Sóng bạc lại về trông.

Cây con nay đã cỗi,

Cầu cũ vẫn hình cong.

Giục người ngày tháng chóng,

Năm nọ còn ai không.

Các công-tử nói rằng: "Rò sen đỏ, đến năm nay lan khắp cả mặt hồ, hoa lá xúm-xít, hương bay ngạt-ngào khắp làng, thực là một cái điềm hiếm có, vẫn tưởng trong làng thể nào cũng có người được đăng Long-môn, nay thấy có bác phụng-chiếu về làng, ý-giả ứng vào cái điềm lành ấy đó." Tôi cười mà rằng: "Phàm người ta xử thì bão-đạo, xuất thì trí-trạch, mới là đại-dụng, chớ như tôi là một kẻ khí-nhân, nay nhân cái việc yêu-hãnh, lấy làm thẹn lắm, đâu dám đương vào cái điềm lớn kia được." Các công-tử nói: "Bác đừng khinh việc thần-ứng mới được." Rồi chúng tôi dắt nhau lên gác chuông để nhàn-vọng, các công-tử lại giục tôi làm thơ, tôi vừa đang hứng-chí liền đọc rằng:

蕭條亂後景

今日始重光

古井澄留月

飛蓮瑞吐香

樓高響鍾鼓

松靜韻笙簧

飛鳥應知倦

傾邋在異鄕.

Tiêu-điều những cảnh qua hồi loạn,

Nay đã trùng-tu đã rõ-ràng,

Giếng cổ trong veo ngâm tẩm nguyệt,

Sen thơm bay mọc ứng điềm làng.

Lầu cao vang khắp tiếng chuông trống,

Thông vẳng nghe ra dịp nhị đàn,

Bay mỏi chim kia nên nhớ tổ,

Lạc đàn lận đận chốn tha-nhang,

Các công-tử cười mà rằng: "Thế ra chim bay kia đã biết mỏi rồi." Tôi nói: "Du-tử bi cố hương, ai không bụng thế, phương chi cái cuộc truy-hoan nơi tử-lý của tôi đến nay đã là muộn rồi. Đường-thi có câu: "Về làng sản nghiệp hết rồi, chiến-thành còn mả mấy người thân-tri." Thơ ấy thực trùng vào cái bệnh của ngu-huynh này đó". Còn đang trò-chuyện, chợt nghe thất tiếng chuông lanh-lảnh. Tôi hỏi: "Tiếng chuông đâu ghẹo người làm vậy?' Các công-tử nói: "Chuông chùa Liên-xuyên đó." Tôi nói: "Trụ trì ở đó là ai?" Các công-tử nói: "Thiền sư họ Thủy ở đó." Tôi mừng mà rằng: "ngày xưa ngu-huynh cũng có bán-diện chi-giao với người", bèn đi với các công-tử đến chơi. Mới đến thiền-quan đã thấy nhà sư chống gậy đứng ở bên sân Phật-đường, thấy tôi sư cụ mừng-rỡ lắm, mời vào trong trai-phòng cùng ngồi uống nước nói chuyện, sư cụ nói ngay lên rằng: "vẫn nghe tiếng chỗ cao-ngọa của ngài, nước trong núi mát, cảnh-trí rườm rà, loài viên-hạc đi từng đàn, bóng yên-hà rợp cả cửa, bần-tăng tôi vẫn muốn nhân "đầu-đà" đến đó, mà hận không biết đường." Tôi nói: "Người được cảnh mà thêm hay, cảnh được người mà thêm thú, trong chỗ viên-sơn nhà tôi cũng dễ chịu, ông anh tôi thích là nơi nhàn-tịch, có giùm một cái tiểu "già-lam" ở giữa những nơi cây rậm, ngoài cất một cái gác chuông để chiêu-mộ, thỉnh dăm ba tiếng cho sạch lòng trần." Sư cụ nghe nói chắp ngay hai bàn tay lại mà nói to lên rằng: "Thanh-nhàn tư-vị như thế, nên đỉnh-chung cũng không đổi được lòng." Lúc đó mặt trời đã sắp lặn, tôi toan cáo-biệt, các công-tử nói: "Chỗ kỳ-viên này tuy ở nơi thôn-quê mà cái cảnh nhàn-hoa u-thảo kia cũng đủ nên thơ sao bác lại khiết-nhiên như thế?" Tôi nói: "Xin đề một đoản-luật ở thiền-phòng để lưu-biệt." Sư nói: "Ngài đã có lòng cho thì còn gì quí-hóa bằng." Liền đưa văn-phòng tứ-bảo đến tôi viết:

煙水江村寂

禪房花草深

無塵登彼岸

有味覺慈心

海月窺金相

松風皷道琴

香燈供晨夕

鍾鼓有和音.

Nước mây làng tịch-mịch,

Hoa cỏ cảnh thiền-lâm.

Vô-trần lên giác-ngạn,

Bửu-vị nếm từ-tâm.

Trăng bề phô kim-tướng,

Gió thông gảy đạo-cầm.

Chuông khuya cùng trống sớm,

Dóng dả tiếng hòa âm.

Đề rồi giã sư ra về, bấy giờ gặp ngày giỗ cụ Thượng-thư là chú tôi, ông Đốc-đồng tuy đi làm quan xa đến ngày ấy cũng về. Cúng xong hôm sau quan Đốc-đồng đặt tiệc ở chùa Từ-vân cho mời tôi và với các ông công-tử đều đến dự-tiệc. Đến chiều các công-tử đem mấy bài thơ đề-vịnh của tôi ra bình-phẩm, quan Đốc-đồng thấy có bài Qui-tỉnh với bài Đề-kiều là hơn, ông cũng họa:

Họa bài Qui-tỉnh

古遼名勝地

豪傑每辰生

幽雅三賢廟

縈迴一水情

人民恆儉德

亭字始經營

高志應多趣

何須隱姓名.

Cô liêu đất danh thắng

Hào-kiệt dễ đâu hơn.

Đền thờ hiền ba vị,

Đầm uốn nước từng cơn.

Dân quen nền-nếp kiệm,

Đình mới lửa-hương thơm.

Người hay hay lắm vẻ,

Giấu gì tên cúng cơm.

Họa bài Đề -Kiều

此橋居此地

遊玩每嗟嗟

文途還武路

前流轉後波

憑欄詩興爽

對畔竹枝斜

四望忻忻處

詩書禮樂家.

Cầu này cùng đất ấy,

Qua chơi những chạnh lòng,

Văn vũ đường đôi ngã,

Trước sau sóng nghển trông.

Thơ bên cầu nhẩm-nhẩm,

Trúc đối ngọn cong-cong.

Xung quanh nhà lễ nhạc.

Mừng chẳng chỗ nào không.

Bác Lạng-trấn nói rằng: "Câu: văn vũ đường đôi ngả, trước sau sóng nghển trông, khí-tượng rất là hoằng-viễn, thực nên giai-họa." Lúc ấy các cháu ngồi đông cả, ông Đốc-đồng nói: "Chúng bay còn nhỏ, không nhớ mặt cụ Quận nhà ta thì cứ trông mặt bác chúng bay đấy." Tôi cười mà rằng: "Cụ tu-mi còn hùng-hậu nhiều, chứ tôi giống cụ thế nào được." Các công-tử nói: "Nhìn kỹ không sai chút nào." Chuyện-trò và uống rượu rõ say tít, đến khuya mới tan tiệc, các ông mừng cho tôi mới về quê chơi, không lấy gì làm vui, ông Đốc-đồng đưa giấy cho ông Viên-hình-quan là em rể dọn sẵn một cái thuyền rồi hẹn với ông Lạng-trấn, ông Viên-lễ-quan 員禮官 là em đường-đệ tôi, sắm-sửa rượu và đồ nhắm để làm cái hội đồng-chu với tôi, định phóng-chạo ra sông Hồ-lô thưởng-nguyệt, phú-thi và cứ thuận dòng nước đi chơi đến độ tuần-nhật mới về.

Đến hẹn, quan Viên-hình cho người nhà chèo hai cái thuyền đến, ông Đốc-đường sai nhà bếp sắm-sửa để đến chiều xuống thuyền.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenHHH.com