Rhapsody in Blue
Khai bút đầu năm với OTP 💕 Thật ra là fic cũ nhưng tui có cải biên, sang nước ngoài 1 mình rồi nên cũng đồng cảm với nhân vật hơn tí. Chúc ae năm mới vui vẻ nhiều tiền và tiếp tục yêu thương OTP nhe :>---Lần thứ năm trong ngày, tôi cố không để mắt mình đặt quá lâu lên người nghệ sĩ violin ở góc quán. Quán bar luôn đông nghịt người vào tầm bảy đến mười một giờ tối: những người làm công, dù là nhân viên văn phòng của Google hay thợ xây vừa trở về từ công trường bụi bặm, đều cố khoe thân hình gợi cảm bằng những chiếc váy lưng trần và những chiếc sơ mi hơi quá chật, mùi nước hoa của vô số nhãn hiệu cao cấp và rẻ tiền trộn lẫn thành một mớ hỗn độn, những tiếng nói cười át cả tiếng nhạc xập xình và đôi khi là tiếng chửi thề của một nhóm đàn ông say xỉn. Giữa bản giao hưởng say sưa, nhập nhằng của rượu chè và ánh đèn neon xanh đỏ, em giống như một nốt trầm lạc quẻ, người chỉ lặng lẽ ngồi bên li New York Sour và luôn lịch sự từ chối khi có người ngỏ ý làm quen. Những đơn hàng ập đến tới tấp khiến tôi không dư nhiều thời gian để nhìn em, nhưng em vẫn thu hút sự chú ý của tôi mỗi khi ánh mắt tôi lướt qua mái đầu bạch kim thấp thoáng ấy.Tôi không biết tên em. Thật ra là tôi chẳng biết gì về em cả. Em chỉ là một vị khách gần đây thường xuyên ghé quán, một người có cùng màu da với tôi và Cedric. Cedric vẫn thường hay than thở về việc có ít người châu Á xung quanh đây thế nào, rằng anh rất muốn gặp ai đó khác ngoài tôi để nhận làm đồng hương, hoặc may mắn thì nhận vào làm ở quán bar, bởi sắp tới có lẽ phải tuyển thêm nhân viên phục vụ nữa. Tôi chỉ biết cười trừ khi nghĩ đến thế giới của anh ấy: một căn hộ tám mươi mét vuông trên tầng hai sáu chung cư, những món đồ hiệu chỉ có thể mua được ở đại lộ thứ Năm, hai ngày đóng cửa quán mỗi tháng để đi du lịch hoặc chỉ đơn giản là đến Carnegie Hall nghe hòa nhạc. Nếu Cedric muốn, tôi hoàn toàn có thể dẫn anh về thăm nhà mình, một khu tập thể nằm ngay trong khu phố người châu Á, nơi anh chỉ cần ra đường và sẽ bắt gặp ngay hai người hàng xóm đang cãi nhau bằng tiếng Quảng. Tôi không chắc anh sẽ thích nơi này. Tôi không chắc anh sẽ thích những thứ về tôi, về xuất thân và quá khứ của tôi. Mỗi con người đều nên giữ cho mình một bí mật, dù là phụ nữ hay đàn ông - chính Cedric đã từng nói vậy. Anh sẽ không nói cho tôi về bản thân, cũng như cái cách tôi giấu anh mọi chuyện. Chúng tôi công bằng với nhau như thế, chỉ cho nhau xem những gì người kia muốn, hoặc cần xem."Bận nhìn gì đấy, nhóc? Không đem đồ cho khách đi?"Giật mình bởi tiếng gọi của Cedric, tôi vội vã chạy tới quầy pha chế. Anh đưa tôi đồ uống cho bàn mười bảy với một cái nháy mắt ẩn ý. Bàn mười bảy. Là bàn của người nghệ sĩ violin châu Á. Mặt tôi lập tức nóng lên khi tôi hiểu Cedric muốn nói điều gì.Thứ tôi kém nhất trong suốt hơn hai mươi năm qua là che giấu cảm xúc thật, điều mà đáng lẽ một thằng nhóc sớm lăn lộn ngoài xã hội như tôi từ lâu đã phải nắm được. Có lẽ tôi đã thất bại, lần thứ năm, trong việc không nhìn quá lâu về phía vị khách ấy. Tôi đem New York Sour cho em. Em nhận đồ uống cùng một lời cảm ơn. Giọng em nhỏ, nhẹ bẫng như cơn gió thoảng. Tôi liếc nhìn hộp đàn đặt gọn ghẽ trên chiếc ghế bên cạnh, nó là thứ đã thu hút sự chú ý của tôi vào lần đầu em ghé quán. Em có phải nghệ sĩ violin không?Tôi không quá am hiểu về âm nhạc để trả lời câu hỏi đó. Một chuyên gia hẳn sẽ có thể đánh giá đâu là nghệ sĩ chuyên nghiệp đâu là người mới bắt đầu, dựa trên đặc điểm cơ thể, tay, trang phục hoặc đại loại, còn tôi thì chỉ là một gã nhân viên quán bar quèn (tôi thậm chí còn chưa được Cedric cho phép bước vào quầy pha chế - những công thức cocktail cũng là "bí mật" mà anh không muốn cho tôi biết). Một lần, tôi chỉ thực sự tiếp xúc với nhạc cổ điển duy nhất một lần vào sinh nhật mẹ mười ba năm trước. Các đồng nghiệp ở xưởng giày đã hùn tiền mua tặng bà hai vé xem hoà nhạc, một món quà xa xỉ đối với cả người nhận và người tặng, bởi nội giá tiền một vé đã bằng tiền lương cả tuần của công nhân. Đã nhiều năm trôi qua, nhưng mỗi khi nhìn vị khách trẻ cùng hộp đàn của em, tôi vẫn nhẫn nại nhớ về những nốt nhạc rúng động trong Carnegie Hall ngày đó, dù thế giới của những cuộc nhậu nhẹt đêm vẫn liên tục quay cuồng quanh mình.Tôi phải kiềm hãm mong muốn được bắt chuyện với em đôi câu mỗi khi có thời gian rảnh. Một, em có phải nghệ sĩ violin không? Hai, tên em là gì, em sống và làm việc ở gần đây không? Ba, sẽ rất tuyệt nếu chúng ta có thể làm quen, em thấy đấy, tôi không có nhiều bạn bè quanh đây trừ chủ quán. Nhưng tôi giữ im lặng, không một lời trao đổi nào khác được thốt ra ngoài những từ ngữ xã giao giữa khách hàng và nhân viên phục vụ. Giống như Cedric, em cũng thuộc về thế giới mà người ngoài như tôi không thâm nhập vào được, cái thế giới được dựng nên bởi những cuộc hội thoại lịch sự mà xa cách của người trưởng thành. Phá vỡ quy tắc đó thì được ích lợi gì chứ? Đối với em, tôi chỉ là một nhân viên quán bar như bao nhân viên quán bar khác. Có lẽ tôi cũng chỉ nên coi em là một khách hàng như bao khách hàng khác, trước khi sự hiện diện của em trở nên đặc biệt với mình. Vậy mà, như mọi lần, thành phố vẫn luôn đem đến cho tôi những bất ngờ. Một số đã quật cho tôi tơi tả, một số lại là những bất ngờ dễ chịu. Ví dụ như bây giờ, khi trời bắt đầu đổ mưa ngay lúc tôi đang trên đường về nhà sau ca làm, những cơn mưa mùa hè luôn nặng hạt và không báo trước. Tôi phải chạy một lúc lâu trước khi tìm thấy một tiệm bánh có mái hiên để trú tạm. Và rồi đột ngột, tôi thấy em ở đó. Quần áo và tóc em hơi ướt, chỉ có hộp đàn là khô ráo. Tôi bước đến đứng cạnh em, lúng túng không biết nên làm gì. Liệu em có nhớ tôi là ai chứ? Mỗi lần nhác thấy một gương mặt thân quen, tôi vẫn thường tự hỏi thế. Liệu họ có nhớ tôi là ai không? Hay tôi chỉ là một kẻ vô danh họ đã sớm ném bỏ khỏi kho lưu trữ kí ức?Nhưng tôi không thể nghĩ nhiều khi em đang ở đây cạnh mình, dưới ánh sáng đèn đường. Tôi tưởng tượng một khung cảnh người ta hay chỉ thấy trong phim: hai người trẻ tuổi đứng bên nhau dưới mái hiên, xung quanh mưa vẫn rơi và những ánh sáng của thành phố vẫn lúc ẩn lúc hiện, mọi thứ xinh đẹp và tĩnh tại khác hẳn mớ hỗn độn ở quán bar khi nãy. Trái tim tôi đập rộn ràng với ý nghĩ được ở bên em trong cùng một cảnh phim lãng mạn kinh điển, một New York lặng lẽ hơn, dịu dàng hơn trong bóng tối.
-
Anh không nói gì cả. Tôi bặm môi, điều đó đồng nghĩa với việc sẽ không ai trong số chúng tôi lên tiếng. Từ nhỏ tôi đã được dạy về phép tắc ứng xử đối với người ngoài: nếu họ không bắt chuyện trước, tôi cũng không có quyền gì để làm vậy. Thói quen đó ăn sâu vào trong máu tôi ngay cả khi tôi đã đến một đất nước cách xứ sở mình hàng nghìn dặm. Và rồi tôi thấy mình ở đây, giữ im lặng với anh, mặc dù trong lòng có cả ngàn điều muốn nói. Anh vừa trở về từ quán bar ư? Anh có bị ướt không, bị lạnh không? Tôi có thể biết tên anh chứ? Không câu hỏi nào sẽ đến được với anh, và mối quan hệ của chúng tôi vẫn sẽ dừng ở đó, giữa khoảng mông lung lưng chừng.Một tháng trước, tôi lần đầu thấy anh ở quán bar do đồng nghiệp giới thiệu. Anh là lí do duy nhất giữ tôi quay lại quán nhiều lần. Nó chẳng có gì đặc biệt so với một quán bar thông thường: những khách hàng trong trang phục mát mẻ, những ánh đèn neon xanh đỏ nhấp nháy, những bài nhạc đinh tai nhức óc và vô số tiếng cười nói loạn xạ. Tôi thà ngồi nghe dàn nhạc chỉnh nhạc cụ suốt một tiếng đồng hồ còn hơn là tra tấn lỗ tai mình ở một nơi như vậy. Nhưng quán bar nơi góc phố đó có anh, chàng nhân viên luôn mặc sơ mi trắng và niềm nở với tất cả khách hàng. Tôi biết anh là đồng hương của tôi chỉ qua màu da - thứ đại diện cho cả một giống nòi lâu nay tôi đã rời bỏ. Ở anh có một sợi dây kết nối tôi với mảnh đất ấy, nơi mà tôi chưa chắc đã dám quay về.Tốt nghiệp được vài tháng, tôi bắt đầu công việc ở một dàn nhạc nhỏ. Mới đầu tôi còn chịu khó để ý thông báo tuyển dụng của những dàn nhạc lớn hơn, nhưng hi vọng cuối cùng cũng trở nên thưa thớt. Tôi nhận ra bản thân đã quen với những chuyến tàu ba mươi phút đến nhà hát, những buổi tập dượt mà việc đối mặt với nhạc trưởng và đồng nghiệp còn khó khăn hơn cả upbow staccato, những màn trình diễn không bao giờ thoát khỏi phạm trù nhạc phim và Tổ khúc Bốn Mùa của Vivaldi, những đêm cố gắng lướt tìm offer chơi nhạc thuê để kiếm thêm thu nhập. Tôi cũng đã quen với việc nhìn chằm chằm tấm bằng tốt nghiệp in tên Draco Lucius Malfoy mỗi sáng, tấm bằng đại học nước ngoài chỉ có công dụng làm mát mặt bố mẹ, trong khi tự hỏi mình đang làm gì ở nơi xa lạ này. Nên ở lại hay quay về? New York chưa bao giờ cho tôi cảm giác thân thuộc, ấy vậy mà tôi vẫn vất vưởng bám víu lấy nó. Dù sao thì tôi vẫn sẽ ổn nếu vòng lặp này tiếp diễn. Không làm điều gì khác thường, và sẽ không có gì xảy ra cả.Anh là một ngoại lệ. Tôi không hiểu điều gì đặc biệt đã thu hút ánh nhìn của tôi về anh. Có lẽ là do gương mặt anh đẹp và góc cạnh như tượng tạc, có lẽ là do cơ thể anh cao lớn và rắn rỏi đúng gu tôi; nhưng quan trọng hơn, anh đem lại cho tôi những cảm giác trước đây mình chưa từng có. Anh khiến tôi vui mỗi khi thấy anh cười, khiến tôi lo lắng mỗi khi anh bị một khách hàng say xỉn quở mắng, khiến tôi nhẹ lòng khi cuối cùng anh cũng được đứng bên lề nghỉ chân một chút. Không, anh không thuộc về dòng người New York luôn xa vời ngoài kia, anh là nhân vật chính trong bộ phim chạy song hành với cuộc đời tẻ ngắt của tôi, một bộ phim tôi có thể xem hằng ngày chỉ với giá một ly New York Sour rẻ mạt. Mà tôi thì thường có cảm tình với những nhân vật chính. Anh có thể chỉ là nhân vật nền trong bộ phim của người khác, nhưng đối với tôi, anh luôn là tâm điểm chú ý, là nơi ánh sáng thuộc về.Trong bộ phim của tôi, đáng buồn thay, lại không có những nhân vật như thế. Tôi không có nhiều bạn, nói chính xác là không có một người bạn thật sự nào. Mối quan hệ của tôi và đồng nghiệp ở dàn nhạc chỉ dừng lại ở mức đồng nghiệp, dù chúng tôi vẫn trò chuyện với nhau vào giờ nghỉ, vẫn rủ nhau đi nhậu sau một buổi tập dượt căng thẳng. Chỉ là khi đem lên màn ảnh thì chắc chắn những cuộc hội thoại năm phút của chúng tôi, cộng thêm các hiệu ứng điện ảnh khác, sẽ phải kéo dài đến hai mươi phút, bởi mọi câu từ đều là tính toán, mọi ý tứ đều là một vở kịch. Họ hỏi tôi có còn giữ liên lạc với bạn Đại học không. Tôi nói mình không. Họ cảm thán rằng tôi phải dũng cảm lắm mới có thể làm thế, rằng họ vẫn phải nhận những lời mời phiền phức từ đám bạn cũ mà họ đã không còn quan tâm lắm. Họ tiếp tục than phiền về áp lực họ phải chịu khi chơi ở ghế đầu violin, và hẳn một đứa hàng hai như tôi phải rất thoải mái khi khán giả không đặt quá nhiều kì vọng vào mình. Họ muốn tôi nghĩ rằng họ đang ghen tị với tôi, trong khi mục đích duy nhất của họ là khoe khoang về những mối quan hệ cùng vị trí công việc mà tôi không có. Nhưng tôi cũng không phàn nàn, chỉ hùa theo câu chuyện với nụ cười nhã nhặn. Mối quan hệ giữa những "người trưởng thành" là như vậy: chúng tôi chỉ cho nhau thấy những gì người kia muốn, hoặc cần xem.Đôi lúc, tôi vẫn thấy anh ngồi ở một góc quán bar khi khách không quá đông. Trong bóng tối chập chờn, anh ngồi im lặng như đồ vật, bàn ghế xung quanh, mắt mơ hồ nhìn vào khoảng không vô định ngoài cửa sổ. Tôi không biết anh nghĩ gì. Nhưng tôi đoán anh đang buồn. Những nhân vật tôi từng thấy trong phim đều mang đôi mắt của anh khi họ đang buồn, một đôi mắt vô hồn, rỗng tuếch và mệt mỏi. Anh có buồn nỗi buồn giống tôi không? Khi anh không còn là chàng nhân viên phục vụ thân thiện và tươi tắn, anh có thấy lạc lõng giữa thành phố này không, anh có cô đơn không? Tôi ngờ rằng vào một khoảng thời gian nào đó, chúng tôi đã cùng ngồi đúng ở một chỗ, đã cùng buồn một nỗi buồn và đã cùng mang một ánh mắt giống nhau. Tôi thích tin vào những điều như thế, rằng bằng cách nay hay cách khác, giữa anh và tôi có một sợi dây liên kết của định mệnh. Hẳn đó là thứ người ta chỉ làm khi gần như bị cả thế giới này cô lập. Hiện tại, tôi lại không thể đọc được anh đang nghĩ gì. Mưa đã dần ngớt, vậy mà một lần quay sang nhìn anh tôi cũng chẳng dám. Nếu đây là một bộ phim, hẳn tôi sẽ đan tay mình vào tay anh, kéo anh chạy theo mình giữa ánh sáng nhòe nhoẹt của đêm New York, mặc anh la lên oai oái rằng cả hai sẽ bị cảm vào hôm sau mất. Nhưng hiện tại, chúng tôi chỉ là hai nhân vật của hai bộ phim tách rời. Anh không nói gì, anh không nói gì, sẽ không có gì xảy ra giữa chúng tôi cả.Cuối cùng thì mưa cũng tạnh, khiến tôi vừa nhẹ lòng vừa ngẩn ngơ tiếc. Khoảnh khắc duy nhất tôi được ở gần anh chỉ vỏn vẹn có thế. Vẫn là tôi quanh quẩn với những suy nghĩ của mình, anh với thế giới riêng của mình. Nhưng New York, như người ta nói, đúng là thành phố của những bất ngờ. Giây phút tôi định rời khỏi chỗ trú, một chiếc khăn tay trắng đã được chìa ra trước mặt tôi. Tôi thấy anh quay mặt về phía mình, trên môi là một nụ cười nhẹ."Em lau tóc cho đỡ ướt này. Đường trơn lắm, về cẩn thận nhé."-
Tôi không biết mình đã nghĩ gì khi đưa khăn tay cho em. Sau cùng, đêm hôm ấy cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Tôi thậm chí còn không chờ em trả lời mà đã chạy vụt đi trước. Từ nhỏ tôi đã luôn là một đứa trẻ nhút nhát, có lẽ bởi sự thay đổi đột ngột trong môi trường sống. Nhưng giờ thì tôi chỉ có thể đổ lỗi tại mình mà thôi.Nơi tôi từng sống ngày nhỏ không phải New York, mà là một thị trấn cách đây rất xa. Tôi không còn nhiều kí ức về nơi ấy. Tất cả những gì tôi nhớ là một khu tập thể cũ nát, nơi đám trẻ luôn ăn mặc bẩn thỉu, xuề xoà và những người lớn thì luôn mang vẻ mặt nặng như đeo chì mỗi chiều trở về nhà. Ngày ấy, một que kem vào giữa trưa đã là xa xỉ. Đám trẻ cùng khu chúng tôi sẽ xúm vào mỗi đứa mút một tí, mồ hôi quệt hết lên người nhau dưới cái nắng nhiệt đới nóng và gắt. Không ai biết ba mẹ chúng cần vất vả thế nào để mua được một que kem như vậy. Năm tôi sáu tuổi, gia đình tôi quyết định rời đi trên một con thuyền cùng hàng chục đồng hương, những mong có cơ hội đổi đời ở một vùng đất trù phú hơn nơi này.Đến giờ tôi vẫn không nhớ rõ gương mặt ba thế nào. Ông đã mất sau chuyến đi vì bệnh tả. Chỉ còn tôi và mẹ ở lại, trong một căn hộ hai lăm mét vuông lạnh vào mùa đông và nóng vào mùa hè. Khu phố của chúng tôi chủ yếu dành cho người Hoa sinh sống, mỗi sáng tôi vẫn có thể nghe thấy giọng nói của quê hương mình vẳng lên từ dưới đường. Họ cũng phải chen chúc trong những căn phòng ẩm thấp chật chội như tôi và mẹ. Có lẽ đó là lí do mẹ thường hay cáu kỉnh. Bà chỉ nhận được dưới mười đô một giờ cho công việc ở xưởng giày, cộng với đó là cả tấn việc nhà và những hóa đơn luôn chồng chất cuối tháng. Chúng tôi chưa bao giờ giao tiếp với ai ngoài những người hàng xóm, nhưng cũng chẳng ai quan tâm khi tất cả đều bận rộn với cuộc sống của riêng mình. Và tôi luôn bị bỏ lại ở đó, trơ trọi. Trong mắt tôi, New York chỉ là một địa ngục khác, nơi cái nghèo đói vẫn luẩn quẩn, nơi những người bé nhỏ như chúng tôi chỉ biết dán mũi vào cửa kính của những tiệm Dior sang trọng và tự nhủ sẽ chẳng bao giờ mình có thể bước chân vào nơi này.Ngày ở Carnegie Hall thì không như vậy.Tôi sẽ không bao giờ quên được buổi hòa nhạc ấy: gian phòng lớn và lộng lẫy, sân khấu sáng lấp lánh với vô vàn nhạc cụ, những khán giả phần đông lớn tuổi trong trang phục nhã nhặn, hương thơm nước hoa chỉ thuộc về giới nhà giàu. Tôi sẽ không bao giờ quên nốt ngân đầu tiên của Rhapsody in Blue, một thứ âm thanh nằm giữa sáo và saxophone, một thứ nhạc cụ tôi chưa từng biết. Suốt hai mươi phút dài như hàng thế kỉ ấy, những giai điệu đã dẫn tôi chạy khắp ngóc ngách của một vùng đất lạ, lúc réo rắt tinh nghịch, lúc thơ mộng dịu dàng. Tôi nhìn sang mẹ, bà mặc chiếc váy thô cứng ngắc mượn của nhà hàng xóm, bao mệt mỏi thường trực trên gương mặt như thể đã tan biến tự lúc nào. Lần đầu tiên tôi thấy mẹ đẹp đến vậy. Vô vàn ánh sáng phản chiếu lấp lánh trong đôi mắt ấy, mẹ đẹp như một người thiếu nữ, một người thiếu nữ đang yêu.New York là thế này ư? Bên ngoài khu phố người Hoa xập xệ ấy, New York còn có thể xinh đẹp như vậy sao? Trên đường trở về nhà, mọi thứ trong mắt tôi bỗng trở nên sáng rực rỡ: những dòng người hối hả, những tòa nhà cao và lộng lẫy, những giấc mơ dường như trong tầm với. Nếu cố gắng thêm chút nữa, có thể tôi và mẹ sẽ đủ tiền để chuyển đến một nơi tốt hơn, có lẽ mẹ sẽ được thăng chức làm quản lí như cô Hwa phòng đối diện... Hẳn ba mẹ cũng đã nghĩ thế trước khi đặt chân lên chiếc thuyền chở họ đến New York. Người ta gọi ấy là giấc mơ Mỹ, một ảo tưởng xa vời không có thực. Nhưng đó là lí do duy nhất để những người như chúng tôi bám víu lấy thành phố này. Mỗi sáng đi học, đi làm, chúng tôi lại nhìn về phía những cửa tiệm lộng lẫy chỉ cách mình vài bước, và tự nhủ chỉ cần cố thêm chút nữa là chúng sẽ ở ngay trong tầm tay.Từ đó đến giờ, tôi vẫn chưa một lần được thấy lại New York ngày hôm ấy, một New York xinh đẹp và rực rỡ. Mẹ đổ bệnh vào năm tôi cấp ba, buộc tôi phải nghỉ học sớm. Bấy giờ tôi mới hiểu những thứ ba mẹ từng trải qua: tiền nhà, tiền nước, tiền điện, tiền thuốc thang, tiền khám định kì, tiền thuê một người hàng xóm trông nom mẹ. Guồng quay của những công việc làm thêm nặng nhọc cuốn tôi đi, tôi không còn mảy may nghĩ gì đến thứ gọi là cơ hội nữa. Xung quanh tôi chỉ còn nỗi sợ hãi về việc mất đi người thân duy nhất. Bởi rào cản ngôn ngữ ngày còn nhỏ, tôi không có nổi một người bạn ở nơi này. Nếu mẹ đi mất, ai sẽ cùng tôi trò chuyện bằng tiếng quê hương, ai sẽ là người chào đón tôi mỗi đêm trở về sau một ngày mệt mỏi? Ai sẽ là người tôi có thể gọi bằng gia đình mình?Và giờ thì tôi thấy mình ở đây, quanh quẩn trong nỗi sợ mất em. Em là người nhắc tôi nhớ về những giấc mơ tươi đẹp ấy. Chiếc violin của em, dù nhỏ nhặt, vẫn luôn gợi nhắc tôi về dàn giao hưởng ở Carnegie Hall, về một New York hoa lệ đã sớm lụi tàn. Vậy mà tôi vẫn không dám bước đến gần em, dù chỉ một chút. Sau đêm mưa đó, em không quay lại quán. Niềm vui nhỏ nhặt trong ngày cũng cứ thế biến mất theo em.-
Mẹ gọi điện hỏi tôi có về nhà cho dịp Tết Nguyên Đán năm nay không. Thật đáng xấu hổ, tôi thấy mình chần chừ trước câu hỏi đó. Đã hai năm nay tôi không về quê đón năm mới, không hiểu lí do vì sao. Có lẽ tôi sợ phải đối diện với những câu hỏi từ gia đình và họ hàng, rằng tôi ở bên đó thế nào, làm ăn phát đạt không. Tôi sợ phải nói ra những câu không thật lòng với những người mình yêu thương nhất. Và khoảnh khắc tôi quyết định tới New York cho một cuộc đời mới, có lẽ phần nào đó trong tôi đã buông bỏ chấp niệm với xứ sở mình rồi.Như người ta nói, mọi thứ chỉ đẹp vào lúc khởi đầu. Tôi của cấp ba, tràn đầy hi vọng trước thư nhập học của một nhạc viện ở Mỹ, đã ngay lập tức khăn gói bay đến vùng đất không phải của mình. Những con đường mới, những tòa nhà mới, những bạn học mới - tất cả cứ ngồn ngộn bày ra trước mắt tôi như một bữa tiệc lộng lẫy. Nhưng rồi tôi cũng phải nhận ra những gì mình kì vọng chỉ là một New York vẻ bề ngoài. Phía sau ấy có gì? Những buổi sáng lạc lõng ở giảng đường vì không thể giao tiếp với bạn bè ngoại quốc, hay những workshop mà tôi chỉ có quyền ngồi trên hàng ghế khán giả, ghen tị và buồn bã khi nhìn những sinh viên xuất sắc hơn mình trình diễn trên sân khấu? Sau bao nhiêu năm cố gắng và cố gắng ấy, tôi dần chấp nhận rằng mình sẽ không bao giờ đủ giỏi, hay đủ hoạt bát, để đứng nổi bật giữa đám đông, và điều đó có nghĩa tôi vẫn sẽ luôn dậm chân tại chỗ, một dấu chấm nhỏ giữa những đốm màu khác cũng nhạt nhòa. Vậy mà tôi vẫn vất vưởng ở nơi này, mông lung giữa lựa chọn ở lại hay quay về. Một phần trong tôi đã cảm thấy quê hương mình sao mà xa lạ. Hoặc, đó chỉ là do tôi sợ hãi trước ý nghĩ phải trở về nơi chính mình đã rời bỏ ngày trước, sau bao nỗ lực xây dựng cuộc sống mới ở một vùng đất khác. Sau cùng, trở về thì có ích lợi gì chứ? Nhưng phần khác trong tôi cũng chưa bao giờ coi căn hộ ở New York là một nơi thân thuộc hay ấm áp, khi mỗi ngày tôi vẫn luôn cảm thấy mình như một bóng ma giữa lòng thành phố. Giữa giao lộ đông đúc ấy, ai sẽ là người đi chậm lại để chờ tôi?Dạo này tôi không còn giữ thói quen ghé quán, có lẽ vì tôi sợ phải đối diện với anh. Tôi sợ mình sẽ yếu mềm, mình sẽ khóc. Anh hẳn đang sống một cuộc đời tươi đẹp hơn cuộc đời mà tôi có. Tôi không muốn phải trở thành một gánh nặng cho bất cứ ai nữa, tôi không muốn làm anh buồn. Sau tất cả, nếu anh vẫn có thể tươi cười như một chàng nhân viên phục vụ bình thường, sự hiện diện của tôi ở quán cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Nhưng anh là người quan trọng đối với tôi. Mỗi tối khi trở về căn hộ, tôi lại tự hỏi bản thân đã làm gì cho qua những buổi đêm ngày trước. Xem điện thoại, tìm việc làm thêm, nghe Bach, hay chỉ đơn giản là lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ? Tôi thử làm theo, ngồi dựa người vào tường và nhìn ngắm những ánh đèn thành phố phía xa. Hàng nghìn ô cửa sổ sáng đèn vuông vức, cái nào cũng như cái nào, tôi ngờ rằng họ cũng đang nhìn về phía ô cửa của tôi với ý nghĩ tương tự. Mà có ai đang thật sự nhìn tôi chứ? Trong một nỗ lực ngu ngốc, tôi cố tìm anh giữa những ô vuông ấy, trước khi nhận ra New York là một bể cá quá lớn để bản thân có thể làm trò viển vông vừa rồi.Sau một tháng như vậy, tôi thấy mình vô vọng. Tôi quyết định đến quán vào một sáng không có lịch trình gì. Đi nhậu chỉ là cái cớ, chủ yếu tôi muốn được thấy anh. Nhưng người đem đồ uống ra không phải anh. Trong lòng thấp thỏm lo lắng, tôi tự hỏi phải chăng anh đã nghỉ việc. Cuối cùng, không thể chịu được cảm giác ngột ngạt đó, tôi đành phải hỏi người đàn ông đang bận rộn lau chùi sau quầy pha chế."Cho hỏi... Anh nhân viên phục vụ bình thường ở đây, hôm nay đi đâu rồi ạ?"Người đàn ông nhìn tôi một lúc, trong mắt hiện rõ ý cười. ''Cậu ấy xin nghỉ một ngày rồi. Đằng nào từ mai quán cũng tạm đóng cửa vài tuần, nên tôi cho nhân viên nghỉ sớm chút."Tôi không biết nên phản ứng thế nào với câu trả lời đó. Có lẽ là nhẹ nhõm khi biết bộ phim của anh vẫn đang chạy song hành với tôi ở một nơi khác, nhưng tôi thấy buồn trước ý nghĩ không được ngắm nhìn nhân vật nam chính của tôi mỗi ngày như một sự an ủi. Chiếc khăn tay anh đưa vẫn luôn được giữ trong túi áo, tôi nửa muốn giữ lại làm kỉ niệm, nửa muốn đem trả anh để lấy cớ bắt đầu cuộc trò chuyện. Nhưng tôi không hiểu tại sao đêm ấy anh lại vội vã rời đi. Anh ghét tôi ư? Hay anh chỉ sợ rằng tôi sẽ kéo anh vào một mối quan hệ phiền phức? Dù sao thì, có lẽ trong vài tuần tới tôi sẽ không được gặp anh nữa. Điều duy nhất gợi tôi nhớ về anh sẽ chỉ là kí ức về đêm mưa ấy, mùi thơm xả vải của chiếc khăn tay, và nụ cười rạng rỡ hơn cả ánh đèn phố thị."Sao anh ấy lại nghỉ vậy ạ?"Lần này người nhân viên kia thật sự bật cười, anh ta nháy mắt đầy ẩn ý. "Tôi chỉ tiết lộ với mình cậu thôi, đừng kể với ai nhé?" "À," tôi gật đầu, dù không hiểu lí do anh chỉ kể cho một-mình-tôi là gì. "Vâng, tôi sẽ giữ bí mật.""Hôm nay là ngày giỗ mẹ cậu ấy. Nhà không còn ai làm giỗ, cậu ấy xin nghỉ để thăm mộ mẹ rồi."Người nhân viên nở một nụ cười trước khi trở về với công việc, còn tôi thì chỉ biết im lặng. Đến tận lúc rời quán, đầu tôi vẫn mơ hồ giữa những điều mới học về anh. So với chàng nhân vật chính trước giờ tôi luôn quan sát bên kia thế giới song song, có cảm giác tôi đã hiểu anh hơn một chút. Tôi nhớ về cái cách anh ngồi ở góc quán bar mỗi khi dư chút thời gian rảnh, đôi mắt anh tối và sâu thẳm, trông anh như đang gánh vác nỗi buồn của cả thế giới này. Nếu người nhân viên kia nói đúng, có lẽ anh đã không còn người thân thiết nào. Tôi đã nghĩ gì về anh cơ chứ? Giống như tôi, anh cũng chỉ là một đứa trẻ với những vết sẹo giấu kín sau tầng áo. Anh thậm chí còn cô độc hơn thế. Tôi ít ra vẫn còn nhận được cuộc gọi từ ba mẹ, nhưng đến cuối ngày, sẽ chỉ có một mình anh bên trong căn hộ vuông vức của mình. Ai biết được, có lẽ vào một thời điểm nào đó, anh cũng đã ngồi bên cửa sổ hòng tìm ai đó nhìn về phía mình, như tôi. Tôi chợt ước giá như mình đã thấy ô cửa sổ của anh, giá như mình có thể là người bên cạnh anh vào những khi buồn bã.Một ngày tẻ nhạt nữa lại trôi qua, với những ca chơi đàn thuê ở đám cưới và những nhà hàng muốn làm bộ sang trọng. Nhưng dường như hôm nay có gì đó đã thay đổi. Tôi không biết thứ đó là gì, chỉ biết nó bao bọc tôi trong sự nhẹ nhõm đã lâu không cảm nhận được. Ráng chiều, tôi trở về nhà từ ga tàu điện, bước chân chợt rẽ sang Đại lộ số Bảy bấy lâu nay mình vẫn luôn trốn tránh. Đường về phòng trọ đại học của tôi từng băng qua Carnegie Hall. Kể từ ngày tốt nghiệp, tôi đã tìm một con đường khác để đi, có lẽ vì không muốn phải nhớ lại những giấc mơ từng có ở nơi này. Tôi của mười tám tuổi đã luôn nán lại một chút trước cửa nhà hát sau giờ học, lòng khấp khởi hi vọng rằng nếu đủ cố gắng, biết đâu sau này tôi sẽ có thể chơi nhạc trên sân khấu lớn ấy, trước những khán giả am hiểu và giàu có ấy. Giờ thì nó chỉ là một cái gai trong mắt tôi, chỉ nghe thấy tên Carnegie cũng đủ nhắc nhở tôi rằng bản thân không hơn gì một kẻ thất bại. Nhưng hôm nay thì khác, tôi cũng không biết bản thân đã buông bỏ chấp niệm với nơi này từ khi nào.Tôi chậm bước trên con đường nửa lạ nửa quen, cảm giác như những tòa nhà này, những gương mặt này mình từng thấy ở đâu rồi. New York hóa ra lại thân thuộc thế này ư? Tôi chợt nhớ về ngày trước, nửa cuối năm bốn Đại học, đã có một người phụ nữ châu Á vẫn thường bắt chuyện với tôi trước cửa Carnegie Hall mỗi chiều tôi trở về từ ga tàu điện. Bà ấy có lẽ đã đãng trí, phải có người dắt xe đẩy và trông chừng. Nhưng mỗi khi thấy tôi đi ngang qua, bà sẽ luôn đứng phắt dậy, chạy đến kéo tay hỏi tôi có phải con trai bạn bà không, sao lâu nay không thấy tôi ghé chơi. Tất nhiên, tôi không quen biết gì người phụ nữ ấy. Bà chỉ gợi nhắc tôi về những người cao tuổi tôi từng thấy ở khu phố người Hoa, những người luôn ngồi cô độc trên thềm cửa với ánh nhìn xa xăm, như đang hồi tưởng về vùng đất chính mình đã rời bỏ. Tôi thấy buồn trước cảnh tượng ấy. Có lẽ tôi cũng chẳng khác gì họ, những người bị bỏ lại bên rìa thành phố, không tìm được một nơi chốn thực sự để thuộc về. Vậy nên, thường thường tôi vẫn chịu khó ngồi lại, trả lời những câu hỏi hôm nào cũng giống nhau của người phụ nữ trước cửa Carnegie Hall, đến mức hẳn bà đã hiểu rất rõ tôi là ai nếu trí óc còn minh mẫn. Bà nói mình có một người con trai trạc tuổi tôi, sau này có lẽ phải nhờ tôi chăm sóc nó, bởi bà không còn nhiều thời gian. Đến giờ tôi vẫn chưa biết con trai bà tên là gì.Tôi tự hỏi bây giờ người phụ nữ ấy đang ở đâu, có còn lưu lại trước cửa Carnegie Hall như ngày trước nữa không. Mái của nhà hát đã thấp thoáng hiện lên trong tầm mắt, những ô cửa kính nhuộm dần sang màu xanh thẫm cuối ngày. Có lẽ tôi sẽ tự tìm câu trả lời. Có lẽ tôi sẽ không trốn tránh nữa. Tôi có thể là một thằng con trai nhát gan, không dám đến gần anh, nhưng nếu có cơ hội gặp lại anh lần nữa, chắc chắn tôi sẽ bước một bước về phía trước, để có thể trả cho anh chiếc khăn tay và hỏi tên anh là gì. Bởi tôi không muốn mất anh, sợi dây nhắc tôi nhớ về nơi mình đã sinh ra và lớn lên, nhắc tôi nhớ rằng hẳn vẫn có một nơi nào đó mà tôi có thể gọi là nhà, dù là New York hay mảnh đất tôi đã từng rời bỏ.-
Sức khỏe mẹ dần yếu đi vào cuối mùa hè năm tôi hai mươi tuổi. Trí óc mẹ không còn minh mẫn nữa, khi thì mẹ gọi tôi bằng tên của bố, khi là tên của một đứa trẻ hàng xóm ngày chúng tôi còn ở thị trấn cũ. Người trông nom mẹ kể rằng bà rất thích được đưa đến Carnegie Hall và ngồi lại đó đến tận cuối chiều, đôi khi còn làm phiền người qua đường. Tôi nghĩ đến ánh mắt lấp lánh của mẹ vào buổi hòa nhạc mười ba năm trước. Người ta thường nói, con người chỉ nhớ về quãng thời gian tươi đẹp nhất vào những lúc cuối đời. Có phải đó là những gì mẹ đã thấy không: một New York xinh đẹp hơn, bao dung hơn?Sau chuyến thăm mộ mẹ, tôi ghé quán bar để giúp Cedric dọn dẹp. Khi ấy đã là giữa chiều, quán không có ai đến vào giờ này. Sắp tới Cedric sẽ đóng cửa quán để đi du lịch mùa thu. Nghĩ đến việc không được thấy người nghệ sĩ violin trong vài tuần tới, lòng tôi chùng xuống. Tôi vẫn chưa kịp gặp lại em, xin lỗi em vì đã vội vàng rời đi vào đêm trời mưa, và nếu có thể thì mời em một ly New York Sour để bắt đầu một cuộc trò chuyện. Cuối cùng thì mối quan hệ của chúng tôi vẫn chỉ dừng lại ở đó.Cedric chợt gọi tôi ra sau quầy khi tôi đang cất dọn bàn ghế. Một tay cầm bình lắc, anh mỉm cười hỏi liệu tôi có muốn học pha cocktail không."Được ạ?" Tôi bất ngờ, đó là những công thức mà anh vẫn luôn giấu kín. Vùng bí mật mà anh chưa bao giờ cho tôi xâm phạm."Sao lại không?" Cedric vui vẻ vỗ vai tôi. "Đây là điều anh làm khi muốn mời ai đó bước vào thế giới của mình. À, không có ý tán tỉnh gì đâu nhé.""Làm như em không biết anh có bạn gái rồi ấy," tôi bật cười. "Em có thể học pha New York Sour được không?""Được chứ, Harry - tất cả những gì em muốn!"Tôi vô thức rẽ qua Carnegie Hall sau khi trở về từ quán bar. Vỉa hè đã bớt đông người hơn, hẳn ai nấy đã mau chóng về nhà cho bữa tối. Tôi ngồi xuống ô cửa thứ ba bên hông nhà hát, đó là nơi mẹ con tôi đã nghỉ chân sau buổi hòa nhạc mười ba năm trước, khi cái nắng gay gắt bên ngoài khiến cả hai cùng choáng váng sau một tiếng ngồi chôn chân trong phòng máy lạnh. Năm ngoái, vào buổi chiều hiếm hoi tôi được về sớm, mẹ đã bảo tôi đưa bà đến Carnegie Hall, ở đó có con trai một người bạn cũ, cậu ấy là người duy nhất chịu nói chuyện cùng bà khi ai cũng đi lướt qua mà không chào hỏi. Rốt cuộc thì tôi vẫn không gặp được người ấy. Tôi chỉ nhớ hôm ấy mẹ đã nhận ra tôi là ai, rằng tôi là Harry Potter, con trai duy nhất của mẹ và ba. Tôi vẫn nhớ cái cách mẹ nắm lấy tay tôi trong bàn tay nhăn nheo của mình, liên tục bảo tôi đừng lo lắng, bà đã nhờ con trai người bạn đó chăm sóc tôi sau khi bà mất. Tôi ngày ấy đã phải nuốt nước mắt vào trong, thậm chí không thể trấn an mẹ rằng tôi sẽ ổn. Nhưng hôm nay, khi tự tay pha ly New York Sour đầu tiên, chẳng hiểu sao tim tôi lại nhẹ nhõm kì lạ, dường như tôi đã bắt đầu tin vào điều đó rồi.Thành phố lên đèn, bầu trời nhuộm dần sang màu xanh thẫm của chiều muộn. Tôi nhắm mắt để gió hè phả vào mặt, cổ họng vô thức ngâm nga giai điệu của Rhapsody in Blue. Đã bao lâu trôi qua, tôi cũng không rõ nữa. Tôi không biết mình đang mong đợi điều gì. Nhưng tôi có cảm giác rằng hôm nay sẽ là một ngày khác biệt, rằng thành phố đêm nay sẽ không giống thành phố của những đêm hôm trước. Vậy là tôi tựa đầu vào bậu cửa và chờ đợi. Đợi một ánh mắt mình vô tình bắt được, người sẽ thắp sáng lại New York như những giấc mơ tôi có ngày xưa.Bạn đang đọc truyện trên: TruyenHHH.com